SỐNG THIỀN

Thiền trong đời sống thường ngày

Tóm lược quyển sách
Living Meditation : Living Insight của Dr. Thynn Thynn
(Bản dịch của Từ Thám - Sydney, Australia -2001*)

Quyển sách nầy của Bà Thynn Thuynn viết về cách học tập thiền định trong đời sống thường ngày . Phần lớn các phương pháp tu hành ở các chùa hay thiền viện đều không thích hợp với người tu tại gia nên không đủ để chuyển hóa người hành đạo . Bà là một học giả Miến Ðiện nhưng theo sở học Tây Phương nên cách trình bày rất dễ hiểu và trong sáng . Bài viết khá dài , tôi cố gắng tóm lược lại những ý chính để đọc giả có thể theo dỏi dễ dàng .
Lê Tấn Tài


A.- SINH HOẠT THIỀN

TÂM THỨC TỰ DO
Trong thiền định , hay nói một cách nôm na là sống thiền thì trước hết bạn phải có trình độ cao về trí thông minh , sự cố gắng và lòng kiên nhẫn . Khởi đầu, bạn phải tập một tâm thức hoàn toàn tự do và không bị giới han . Thứ tự do mà bạn tìm đây là tự do tuyệt đối để tâm thức tìm được chân lý . Nhưng làm sao bạn đạt được một tình trạng tuyệt đối như vậy khi đa số chúng ta bắt đầu với sự phán đoán và điều nguy hiểm nhất là sự phê phán dựa trên tình cảm : quan niệm của tôi , đức tin của tôi , kinh nghiệm của tôi ... Như thế bạn không có tự do để tiến bước xa hơn nữa . Chỉ có cách bạn phải nhìn mọi sự vật với tâm bình đẳng (không định kiến , khen chê ...), dù đó là triết thuyết, lý tưởng, hoặc ngay cả công phu tu tập và tiến bộ của mình nữa. Chỉ như thế bạn mới có thể nhìn sự vật một cách khách quan được. Muốn được tự do bạn chỉ cần hai điều: tâm hồn im lặng và trái tim cởi mở.
THIỀN TRONG SINH HOẠT THƯỜNG NGÀY
Trong khi tập Thiền Quán, bạn không nhất thiết phải tu để đạt tới tình trạng an định. Ðiều tối cần là bạn phải có trí tuệ ba-la-mật (panna paramita) tức là trí thông minh có sẳn. Nếu bạn có trí tuệ ba-la-mật và ở tình trạng sẳn sàng, thì có thể đắc ngộ ngay sau khi chỉ nghe một bài giảng. Do đó, với trí tuệ giải thoát, bạn sống tại gia vẫn có thể đắc ngộ khi quán chiếu vô thường bên trong hay ngoài bản tâm, tại gia hay ngoài xã hội.( Ledi Sayadaw)
Thiền đem tới sự thư giản nhưng không phải là một phương thức trị liệu cấp thời để giảm căng thẳng mà là một phương pháp rèn luyện tâm để đạt đến giải thoát .
Nói đến tu thiền là người ta nghĩ đến tọa thiền (ngồi thiền) . Thật ra đây chỉ là một hình thức kỹ thuật để hổ trợ cho việc tu thiền . Nhưng nếu thiền nhằm mục đích để giúp tâm bình an thì thiền phải là một hành vi linh động trong cuộc sống hàng ngày , giữa các thăng trầm của đời sống , các xung động của các dục vọng , cảm xúc... Làm sao để kiểm soát chúng ? Hãy ngắm nhìn tâm mình trong im lặng vì bản chất của tư tưởng và tình cảm là tạm bợ và tự chúng không có đời sống riêng biệt. Nếu bạn bám níu chúng thì bạn làm cho chúng ở lại lâu hơn chỉ khi nào tâm thức bạn không còn bám níu hay vất bỏ thì nó mới có thể nhìn cơn giận như là cơn giận, ham muốn như là ham muốn. Sự thấy biết nầy gọi là tuệ giác (Panna) . Chỉ khi nào bạn không còn dính líu với cảm xúc thì lúc đó bản chất bình an của tâm thức mới hiện ra. Bản chất bình an nầy làm bạn có thể sống trọn vẹn từng giây phút của đời sống. Với sự thông hiểu và nhận thức mới tìm được, bạn sẽ có thể sống như một con người trọn vẹn và nhạy cảm hơn. Bạn sẽ nhìn đời với một quan điểm mới mẻ và tươi mát. Và kỳ diệu thay, những vấn đề trước kia không còn là vấn đề nữa.
SỐNG VỚI GIÂY PHÚT HIỆN TẠI
Như vậy muốn có một tâm thức mới nầy hãy tập có tỉnh giác về bất cứ hành động nào của mình ngay lúc nầy: đi bộ, ngồi, tắm, hút bụi, ngắm hoa, vv...Bạn có thể tập điều nầy bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu. Trong khi rèn luyện tâm tập trung, bạn sẽ thấy là mình càng ngày càng bớt lơ đãng. Rồi về sau, khi bạn tiếp tục rèn luyện, bạn sẽ có thể tỉnh giác về tư tưởng và tình cảm của mình ngay khi chúng mới nổi lên.
Giả sử như bạn đang lái xe. Bạn phải chú ý về hành động lái xe, phải không? Tâm của bạn phải ở tại chỗ và ngay giây phút đó, chú ý nhìn trên xa lộ, quan sát các tài xế khác. Bạn không thể nào để mình quá lơ đãng bởi những tư tưởng khác. Lái xe cũng giống như tập tỉnh giác về hành động đang làm của mình.. Hoặc giả sử như bạn đang ăn. Nếu tâm bạn lơ đãng, có thể là bạn không nhận thức mình đang nếm mùi vị của thức ăn, huống hồ là có thể thưởng thức nó. Chỉ khi nào bạn chú ý trên hành động ăn thì bạn mới có thể thật sự thưởng thức được mùi vị của thức ăn. Nhưng thường là bạn không làm những hành động khác một cách tập trung như vậy .
Sống với giây phút hiện tại chỉ là một cách nói, không phải là một điều răn phải răm rắp tuân theo , vì nếu bạn quá đeo níu vào giây phút hiện tại thì bạn sẽ mất đi nghệ thuật sống thư thả. Sống với giây phút hiện tại chỉ là một cách để tập cho tâm mình thôi xao động , suy nghĩ lung tung ...
Ðiều quan trọng là học tập bỏ thói quen vọng tâm ( tâm luôn luôn nhảy chuyền) , luyện cho tâm mình được tập trung và vững vàng hơn. Nhưng trong thiền định , tập trung chỉ là một phần . Ðiều tối cần là phải bỏ dục vọng . không phán đoán , thích hay không thích ... tức là bạn phải đạt đến tâm xã ( Tâm im lặng – Upekha) .
SỐNG VỚI NHIỀU GIÂY PHÚT KHÁC
Trong công việc thường ngày bạn thường làm một cách máy móc . Chẳn hạn khi đang lặt rau, bạn không nhất thiết phải chú ý đến màu sắc hay hương vị của rau mà có thể trả lời vài câu hỏi của các con . Không có một nguyên tắc cứng nhắc nào cả . Nếu công việc quá bận rộn thì bạn đâu còn chú tâm đến việc khác . Trong tình thế nầy , thay vì để ý đến sự lộn xộn ở bên ngoài thì dừng lại và nhìn thẳng lại tâm mình ở bên trong . Ðó là cách để đạt đến một trạng thái cân bằng , để bạn có thể nhìn sự hỗn loạn bên ngoài một cách khách quan . Ðây gọi là Tuệ Giác (Panna) hay là giác ngộ xuyên suốt . Khi sự tỉnh giác đã đủ mạnh và trong tâm có sự im lặng hoàn toàn thì tuệ giác sẽ tức thời hiện đến cho chúng ta biết cách tốt nhất để đối phó với tình thế trước mắt. Khi tâm không còn thành kiến, bạn sẽ có thể hành động tức thời, đầy sáng tạo.
THIỀN TRONG HÀNH ÐỘNG
Một cách tổng quát tâm trí của bạn đều bị ngoại giới chi phối và bạn phản ứng với nó một cách máy móc và theo thói quen . Bạn bị kẹt ở bên ngoài và bỏ quên tâm mình ở bên trong . Bạn không thể nào quán tâm được . Chẳn hạn khi lái xe bạn không thể nào vừa quán tâm vừa chú ý đến diễn biến xẩy ra trên xa lộ . Bạn không làm thế , nhưng bạn có thể tập trung một cảm xúc nào đó quấy nhiễu chúng ta nhiều nhất . Chẳn hạn một sự tức giận . Khi bạn bắt đầu quán sự tức giận của mình, bạn sẽ khám phá một điều lý thú là bạn vừa biết mình đang tức giận thì cơn giận tự nó tan biến đi. Dần dần sự quán tâm sẽ trở nên tự nhiên hơn. Không bao lâu, bạn sẽ thấy rằng, đột nhiên giữa một cơn giận dữ, cơn giận của bạn bỗng nhiên biến đi mà không báo trước. Bạn cần hiểu rất rõ một điểm: phải tỉnh giác và đừng phê phán. Sự tỉnh giác chính nó sẽ tập cho chúng ta có được một tâm trí đơn giản và trong sạch, không có phê phán và phân biệt. Thường thì bạn chỉ phản ứng thay vì hành động. Bạn phản ứng theo đường lối đã điều-kiện-hóa của tâm bạn. Muốn dừng phản ứng, phải phá vỡ sự điều kiện hóa đó. Giả sử như đứa con nhỏ của bạn đang khóc vì bạn không cho nó vật nó muốn. Nếu bạn dừng lại để nhìn, bạn thấy sự bực dọc của mình. Bạn còn có thể nổi giận vì không thể lý sự với đứa nhỏ. Ngay lúc bạn nhìn thấy sự nóng giận, nó tan đi - và thay vì đáp ứng với con bạn bằng sự giận dữ, bạn có thể thông cảm nhưng cương quyết đối với nó. Thật là lạ, bởi vì đột nhiên bạn biết cách đối phó với vấn đề. Bạn không can dự vào sự nóng nảy của nó, hay của chính bạn. Hình như đứa nhỏ cảm nhận được điều nầy và nó cũng trở nên bình tĩnh hơn.
BUÔNG XÃ
Buông xã là không bám níu về môt việc gì . Thường đó là động lực ham muốn một sự thành công, được điều khiển , được vinh danh...Ðừng lẫn lộn ham muốn với hành động . Buông xả ở đây là buông xả sự bám níu vào tham dục, chớ không phải buông xả hành động. Bạn hãy dừng lại và nhìn về sự ham muốn của mình . Khi bạn thấy được sự ham muốn, bạn cũng thấy được sự bám níu vào ham muốn đó. Và khi bạn nhận ra sự bám níu, bạn thấy nó tan biến đi và bạn tức thời buông xả. . Hành động nầy là một hành động không căng thẳng hay bực dọc kèm theo. Ðó là hành động thanh tịnh và giản dị, bạn có thể hoàn tất được nhiều chuyện hơn và ít bị căng thẳng hơn. Trong những cơn xúc động - bởi vì diễn tiến tâm lý biến đổi quá nhanh – bạn chỉ nhận diện được những cảm xúc thô kệch như nóng giận và thù hận. Sự ham muốn và bám níu thì tế nhị hơn nhiều, nên cần có định lực mạnh hơn mới có thể nhận ra chúng được.
Cái tôi được hình thành từ từ trong vô thức . Ðến khi khôn lớn thì cái khái niệm về bản ngã của bạn đã trở nên 'hiện thực' đến nỗi khó phân biệt được đâu là ảo tưởng và đâu là thực tế. Bạn không nhận cái tôi là tạm bợ , tương đối và luôn luôn thay đổi , bởi thế bạn cố bám níu vào chúng và không bỏ đi . Sự ham muốn 'giữ cho mọi sự vật còn mãi' làm cho việc tu tập 'buông xả' thật là khó khăn.
Nếu bạn buông xả cái 'tôi' và 'của tôi' thì bạn có mất hết lai lịch , sẽ trở thành lạnh lùng và vô cảm chăng? Nghe thật đáng sợ, giống như là sống trong khoảng trống không. Không sao cả , bạn nên hiểu cái bạn mất đi chỉ là một ảo tưởng. Nó không bao giờ có thật. Bạn trút bỏ trong tâm cái ảo tưởng về bản ngã. Chỉ buông xả cái ảo tưởng thôi.
Nếu bạn dừng sự suy nghĩ trong phút chốc và ngồi lại để phản chiếu trên tâm mình, bạn sẽ ngạc nhiên thấy rằng bạn đang được bình an. Bình an là bản chất tự nhiên của tâm thức trong mỗi người chúng ta. Bình an đã có mặt ở đó kể từ ngày chúng ta sanh ra và nó sẽ tiếp tục ở đó cho tới ngày chúng ta chết đi. Ðó là món quà vĩ đại cho bạn; như vậy tại sao bạn lại nghĩ rằng mình không được bình an trong tâm? Khi nhìn vào tâm mình bạn thường chỉ nhận biết các tâm trạng hoạt động, như là các tư tưởng và các cảm xúc đi chung với chúng. Nhưng bạn có khuynh hướng bỏ quên các khoảng thời gian bình an ở giữa các tư tưởng và cảm xúc đó. Nếu con người phải khổ sở hay buồn bực từng phút một trong suốt 24 giờ mỗi ngày, thì chắc mọi người sẽ điên hết . Thế thì tại sao bạn nghĩ rằng mình không bao giờ được bình an? Ðó là bởi vì bạn không bao giờ tự cho phép mình được bình an. Bạn quá say mê đấu đá với chính mình và cảm xúc của mình đến nỗi sự đấu tranh nầy trở thành bản chất thứ hai của bạn. Thế rồi bạn lại than phiền rằng tâm mình không được bình an!
Tại sao bạn không gạt qua một bên tất cả những ý tưởng phức tạp nầy trong phút chốc để có thể ngắm nhìn bản chất bình an nầy .
Như vậy cái gì làm cho tâm bạn bất an ? Chỉ khi nào khái niệm về 'tôi' và 'của tôi' nổi lên thì tâm thức mới bị lôi kéo vào xung đột. Thích và không thích mau lẹ đi theo những khái niệm chấp ngã đó. Ðây là khởi đầu của phiền toái. Giả sử như bạn làm mất xâu chìa khóa. Vấn đề bắt đầu khi bạn bắt đầu phê phán sự kiện bạn làm mất xâu chìa khóa. 'Tôi không thích bị mất chìa khóa. Bạn còn có thể tiếp tục suy nghĩ: 'Tại sao tôi lại vô ý quá như thế?” Tất cả những sự phiền hà nầy nổi lên từ phản ứng của bạn đối với xâu chìa khóa bỏ quên đâu đó. Bạn hãy quay lại điểm khởi đầu của sự bực bội. Khi bạn có tư tưởng 'Tôi mất xâu chìa khóa', bạn đã không thể buông xả tư tưởng đó. Thay vào đó, bạn tức khắc nhảy vào 'thích' hay 'không thích'. Cảm xúc, xung đột và bực dọc đều phát xuất từ nhị nguyên 'thích' và 'không thích' nầy. Bạn đã tự để cho mình bị cuốn trôi đi bởi những phê phán, cảm xúc và bực bội.Nhưng chúng ta hãy ngắm nhìn những tư tưởng trong giây lát. Chúng nó nổi lên rồi tự chúng rơi rụng, trừ phi bạn bám níu vào chúng. Nếu bạn để cho tư tưởng tiếp tục đi hết đời sống bình thường của chúng, chúng tự nhiên rơi rụng. Tư tưởng của bạn cũng phải chịu qui luật phổ quát về Vô thường (Anicca). Bản chất của tư tưởng là tạm bợ, trừ khi cái 'tôi' can thiệp và không cho chúng ra đi. Bằng cách bám níu vào tư tưởng và cảm xúc, cái 'tôi' tiếp tục kéo dài quá trình cảm xúc. Chính là cái 'tôi' cố bám níu vào tư tưởng và cảm xúc và để cho chúng gây bất an.
QUÁN CHIẾU VỀ TÂM BÌNH AN
Nếu thỉnh thoảng bạn nhận thấy có những giây phút bình an, thì bạn đã bắt đầu rồi đó. Bạn đừng bận tâm nếu những giây phút nầy rất ngắn ngủi. Bạn có thể dùng những phút bình an nầy làm căn cứ để thăm dò tâm mình. Ðây có thể tiêu điểm từ đó bạn có thể khám phá tâm. Và đáng ngạc nhiên thay, bạn sẽ thấy đây cũng chính là ngôi nhà mà bạn tìm về. Giả sử như muốn thấy vật thể di động trong không gian như thế nào, bạn phải thấy được trọn khoảng không gian và các vật thể trong đó. Không có không gian thì vật thể không di động được. Vật thể có thể biến mất trong không gian, nhưng không gian vẫn còn đó. Tâm của bạn có thể ví như khoảng không gian , tư tưởng và tình cảm ví như những vật thể di động . Nếu bạn có thể thấy rõ được khoảng không gian nầy, bạn cũng sẽ thấy rõ hơn cái gì nổi lên và rơi rụng trong đó. Có thể bạn chưa được bình an trọn vẹn, nhưng ít ra bạn đã có được một khoảng trống để thở, và nghỉ ngơi .
Bản thể của tâm bình an rất đơn giản. Nhưng bạn làm cho nó phức tạp bằng cách nghĩ rằng phương pháp tìm nó phải là khó khăn. Bạn bị điều kiện hóa để đạt được điều nầy, thành tựu điều kia, vv...Tâm bạn lúc nào cũng động. Dĩ nhiên bạn phải làm ăn, nuôi gia đình, kết bạn, đưa con tới trường, vv...vì đó là đời sống. Nhưng nếu bạn cứ tiếp tục nếp sống vội vã như là cách để tìm bình an, bạn sẽ không tìm được bình an.Ðiều chúng ta cần quan tâm là nên sống chậm lại...để cho bạn có thể tự hiểu mình và kinh nghiệm được những gì đã có sẳn trong tâm bạn.
TÂM IM LẶNG
Tâm im lặng không phải là tâm chết cứng trái lại rất nhạy cảm với môi trường chung quanh . Tâm im lặng thoát khỏi sự thù ghét, nóng giận, ganh tỵ, lầm lẫn và xung đột nghiã là nó thoát khỏi quan điểm nhị nguyên . Nói chung, bạn nhìn thế giới qua một khung khái niệm dựa trên lối suy nghĩ nhị nguyên. Khi vừa nhận thức một sự vật, bạn phê phán nó liền. Thí dụ , phê phán là nó tốt. Ngay khi ta vừa phê nó tốt, thì những cái gì trái lại tự nhiên trở thành xấu. Bạn đã chia thế giới khái niệm theo sự phân cực nầy; bạn dựng lên thiện và ác, tốt và xấu, đúng và sai, theo tiêu chuẩn riêng của bạn .
“Nhưng chúng ta phải phân biệt thì mới có thể sinh hoạt trong đời sống thường ngày được. Tôi sẽ không ăn một quả táo thối. Nó sẽ làm tôi bị bịnh. Tôi phải phê phán rằng quả táo nầy thối, quả kia thì chín và ăn rất tốt.” Dĩ nhiên là bạn cần phải phê phán để có thể sinh hoạt trong thế giới nầy. Bạn cần phải phân biệt một quả táo ngon lành và một quả táo thối. Ðây là phê phán dựa trên lý luận chớ không phải cảm xúc. Nhưng thường thì chúng ta không dừng lại ở phê phán dựa trên lý luận. Chúng ta tiếp tục áp đặt thêm phê phán cảm xúc về 'thích' hay 'không thích' trên nhận thức về quả táo. Quả táo chỉ là quả táo, tốt hay thối. Bạn có thể lấy nó hay bỏ nó. Bạn có thể có phán đoán luận lý về nó. Nhưng vấn đề là chúng ta lại phán đoán dựa trên cảm xúc. Ðây là điều mà chúng ta cần hiểu rõ. Khi chúng ta phê phán dựa trên cảm xúc, chúng ta làm cho tâm bị gợn sóng. Những gợn sóng nầy tạo thành sóng lớn hơn và phút chốc bão tố có thể nổi lên, làm cho tâm bị xáo động. Tựu trung là chúng ta mất liên lạc với sự im lặng bên trong, tức tâm bình an.
Nên nhớ nhị nguyên tạo ra tâm khái niệm. Chúng ta thích bám níu vào những gì chúng ta đã tạo ra. Nhị nguyên do chúng ta tạo đã trở thành một vật sở hữu . 'Tôi' muốn bám giữ ý tưởng 'của tôi' về cái đúng, cái đẹp, cái tốt lành. Do đó tâm chúng ta bị cứng ngắc, và cuối cùng chúng ta nhìn thế giới qua những khe hở nhỏ hẹp. Bằng tỉnh giác , sự phê phán sẽ dừng lại. Khi không còn phê phán thì bạn nhìn sự vật đúng như thật tế , đây là cách duy nhất để bạn thoát ra khỏi nhị nguyên , thế giới sẽ mở rộng ra và Từ Bi Hỉ Xã sẽ đem lại sự cảm thông với người khác .
TỨ DIỆU ÐẾ TRONG ÐỜI SỐNG THƯỜNG NGÀY
Tứ Diệu Ðế là cột trụ của Phật giáo. Hiểu chúng sẽ giúp cho đời sống thường ngày của bạn được tốt đẹp hơn . Chân lý thứ nhất về Khổ ( Dukkha) phải được hiểu là bao gồm kinh nghiệm của con người từ sự bất mãn nhỏ nhoi đến sự đau khổ tột cùng . Ðó là sự kiện không thể tránh được của Sinh – Lão – Bệnh - Tử . Trong ý nghĩa thâm sâu nhất, Khổ là không hiểu được tính giả tạm của mọi vật , chính nó là nguyên nhân của Ðau Khổ và như thế các chân lý còn lại chỉ là con đường thoát khổ .
Giả dụ bạn phiền hà vì tiếng động và muốn chấm dứt nó . Sự ham muốn nầy nổi lên từ sự bất mãn của bạn với hiện tại . Sự ghét bỏ đó là một tình trạng căng thẳng . Nhưng bạn không nhận thức được sự ghét bỏ và sự đau khổ nó đem đến. Bạn cho Khổ là do người nào hay việc nào khác gây nên. Sự thiếu nhận thức nầy gọi là Vô Minh hay Ngu Dốt, ngu dốt về Tứ Diệu Ðế . Sự ngu dốt nầy được diễn tả là tình trạng thiếu tỉnh giác. Ngay lúc này bạn hãy nhìn vào tâm của bạn . Và khi bạn ý thức về sự bực bội, sự ghét bỏ tan đi. Nó tan mất vào tâm. Sự bực bội sẽ bớt đi nhiều vì vấn đề không phải là đem sự bực tức ra khỏi tâm. Vấn đề là chấp nhận sự kiện mình đang bức rức và bực bội. Vấn đề không phải là tiếng ồn, mà là phản ứng của bạn với nó. Bạn phải đối phó với mình trước khi đối phó với tiếng ồn là phải làm gì đây? Trong đời sống có nhiều trường hợp mà bạn không thể loại trừ được những yếu tố bên ngoài. Chúng ta không thể loại trừ hay kiểm soát hầu hết ngoại duyên trong đời sống, nhưng chúng ta có thể làm một cái gì cho chính mình. Bạn bắt đầu với chính bạn. Bởi vì bạn được sinh ra với ý chí tự do, nên bạn có thể làm bất cứ điều gì với chính mình. Bạn không thể chấm dứt tiếng ồn, vậy bạn phải lựa chọn chấp nhận nó . Bạn phải phân biệt giữa chấp nhận một cách mù quáng và chấp nhận một cách thông minh. Chấp nhận chỉ có thể được trọn vẹn nếu bạn không chứa chấp sự phê phán. Bây giờ bạn hãy nhìn lại trong tâm của bạn xem sao ? Sự bực bội đã biến mất . Bạn đã thấy là mình có thể phá vỡ được chu trình đau khổ bằng cách chỉ nhìn vào trong tâm trạng của mình. Ðây thực ra là sự tỉnh giác của tâm, là căn bản của sự tu tập 'thiền quán tâm' (Sati-patthana) trong Phật giáo. Sự chấp nhận tiếng ồn là kết quả của sự tỉnh giác. Sự tỉnh giác là hành động siêu thoát. . Sự chấp nhận mà chúng ta đang nói đây là sự tự nhiên và tức thời hòa nhập và làm một thể với môi trường .
Sự bất mãn của bạn với tình trạng ồn là chân lý thứ nhất về Khổ - tức Dukkha. Sự ham muốn hay khao khát được yên tịnh là chân lý thứ hai - Samudaya - tức Tập, hay là nguyên nhân của Khổ. Giây phút bạn được tự do thoát khỏi sự bực bội về tiếng ồn là Nirodha (Diệt) tức chân lý thứ ba. Khi bạn tu tập tỉnh giác, thực ra bạn đang thực hành Magga, hay Bát Chánh Ðạo. Bạn đang Chánh Tinh Tiến (gọi là Samma Vayama) để tu tập Tỉnh Giác tức Chánh Niệm (gọi là Samma Sati ) về sự bực bội của bạn. Do đó tâm bạn được tập trung, tức Chánh Ðịnh (gọi là Samma Samadhi ). Khi bạn siêu việt sự không thích tiếng ồn và không còn khó chịu, ngay lúc đó bạn có thể nghe tiếng ồn như thực tế , đây là Samma Ditthi hay là Chánh Kiến. Khi bạn không mong đợi nó chấm dứt hay trở nên ồn hơn, đó là Chánh Tư Duy (samma sankappa). Bạn có thể nói lên tình hình với nhận thức đúng đắn, gọi là Chánh Ngữ (samma vaca). Bây giờ bạn không muốn có những hành động bậy bạ, đó là Samma Kammanta, tức Chánh Nghiệp. Từ Chánh Nghiệp nầy , bạn đã thực hiện Chánh Mạng (samma ajiva).
TÍNH HỢP NHẤT CỦA BÁT CHÁNH ÐẠO
Trong Phật giáo, Bát Chánh Ðạo là con đường dẫn tới sự giải thoát. Muốn hiểu Bát Chánh Ðạo và áp dụng nó vào đời sống, chúng ta phải nhìn nó với sự hợp nhất của thân, khẩu và ý và trên bình diện Tuệ - Giới – Ðịnh (Panna, Sila và Samadhi.)
Mục đích chánh của Giới là để tránh làm tổn hại người khác bằng ngôn ngữ và hành động xấu - nhưng bạn phải giới hạn mình tới mức độ nào trong mọi lúc đây? Hành động của tâm, khẩu và thân xảy ra liên tiếp nhau rất nhanh đến nỗi hình như là không có khoảng trống ở giữa. Khi tư tưởng vừa nổi lên thì chúng ta thấy mình nói năng hay làm chuyện gì rồi. Chúng ta thấy mình không thể kiểm soát lời nói và hành động mình đủ nhanh để tránh làm tổn hại đến người khác. Nhưng sự tỉnh giác (sati) của bản tâm sẽ làm cho nó cảnh giác về hành động và lời nói của chính nó. Làm sao chúng ta có thể quay ngược sự chú ý vào bản tâm? Con đường tu tập tỉnh giác là cách phá được thói quen bận tâm về ngoại cảnh để có ý thức về những gì xảy ra bên trong, trong tâm chúng ta khi chúng ta sinh hoạt thường ngày. Khi sự tỉnh giác hay chánh niệm (samma sati) xảy ra, chúng ta thấy tâm mình không còn hành động nữa, nó dừng lại như là một chứng nhân để nhìn vào trạng thái bên trong. Khi sự quán tâm nầy đã trở thành thói quen cố định, như là bản chất thứ hai, thì chu trình phản ứng vô ý thức đối với ngoại cảnh bị phá vỡ. Trong giây phút đột phá nầy, sự 'thấy biết' hay 'ý thức' xảy ra: đó là sự nhận thức trong sáng như pha-lê về sự vật đúng như thực tế, về tình huống và nhân vật trong nhãn quan vô phân biệt, không có 'thích và 'không thích'. Từ tuệ giác mới mẻ nầy - Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ và Chánh Nghiệp sẽ tiếp theo - tương đối và thích ứng với mỗi trường hợp, không còn vấn đề tuyệt đối đúng hay tuyệt đối sai nữa. Do đó, Giới Ðịnh Tuệ có thể được bao gồm trong từng giây phút tỉnh giác của đời sống thường ngày - ngay khi bạn ăn uống, làm việc, giải trí hay phấn đấu. Tóm lại, đời sống của bạn chính nó đã trở thành Bát Chánh Ðạo.
NĂNG ÐỘNG CỦA TÍNH THIỀN
Trong một vài hình thức tọa thiền, người ta có thể đạt tới một tình trạng mà tâm thức hoàn toàn vắng lặng, tập trung và tự chế, gọi là Vô Tưởng Ðịnh (jhanic samadhi). Trong tình trạng thiền định nầy, hành giả không thể sinh hoạt được. Ðây chỉ là một tình trạng tạm thời mà hành giả sẽ ra khỏi. Nhưng chúng ta đã nói về một lối thiền định khác, không qua tình trạng Vô Tưởng Ðịnh. Nếu bạn tu tập tỉnh giác trong đời sống thường ngày như là bạn đang kinh nghiệm ngay lúc nầy, bạn không phải đi qua tình trạng tự chế đó. Tiến trình thiền định luôn luôn tích cực mặc dù bạn tọa thiền hay thiền trong sinh hoạt thường ngày. Trong lối thiền tĩnh tọa, mặc dù thân thể ngồi yên, tâm chúng ta vẫn tích cực quán, nó có tỉnh giác về thân hay tâm. Thiền định là kỷ luật nội tâm cuối cùng sẽ đưa tâm ta về tình trạng thanh tịnh hóa.
Thiền định không làm cho bạn trở nên một người ù lì, vô tưởng hay vô cảm . Thật ra thiền định đem lại những gì tốt đẹp nhất trong bạn - tình thương, sự nồng ấm và nhạy cảm đối với mọi chúng sinh. Sự tu tập tỉnh giác, mặc dầu là trong lối tọa thiền hay sinh hoạt thiền, là một tiến trình tích cực và tiếp diễn. Trong tọa thiền, mặc dầu thân ngồi yên, tâm ta vẫn tích cực quán và có ý thức về thân tâm. Trong sinh hoạt thiền cũng thế, tâm tích cực tự quán mà không phụ thuộc vào cử động hay thời gian. Cái kỷ luật tâm linh trong mỗi hình thức là điều tối quan trọng sẽ đưa tâm chúng ta tới tình trạng thanh tịnh. Không phải tư thế ngồi đưa tới sự giác ngộ, mặc dầu tư thế cũng hữu ích khi giúp cho tâm tự an định. Nếu bạn hiểu rõ điều nầy, bạn có thể thiền định bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào.

B.- PHẢN ÁNH THIỀN

TẬP TRUNG VÀ THIỀN ÐỊNH
Ðối với nhiều người, hành động tập trung tâm ý được coi như đồng nghĩa với thiền định. Chẳn hạn khi họ làm việc gì một cách tập trung - đọc sách, làm việc, chơi gôn - là họ đang thiền định rồi. Ðiều nầy chỉ đúng một phần thôi. Thật ra, tập trung tâm ý (gọi tắt là Ðịnh) chỉ là một phần của thiền định. Tinh yếu của thiền định là nhằm đạt tới một sự hiểu biết cao hơn, tức là trí tuệ (panna), là tỏa rộng tâm mình ra khỏi những giới hạn của trí thức để đi vào lãnh vực của trực giác, của trí tuệ (hay tuệ giác).
Mục tiêu của việc tập trung ý trong làm việc hay tiêu khiển hoàn toàn khác với mục tiêu của thiền định . Trong khi làm việc , bạn chỉ quan tâm đạt đến một cái gì ở ngoài bạn như như là làm ăn thành công, thắng cuộc chơi gôn, hoàn tất một thí nghiệm khoa học, vv...Trong thiền định, trái lại, sự thành tựu là ở bên trong, sự thành tựu của tự ngộ và tuệ giác tâm linh. Trong những giai đoạn đầu tiên của thiền định, có thể bạn cần tập trung tâm ý trên một đối tượng ở ngoài tâm, như là chót mũi, hay là cử động lên xuống của bụng dưới, cho đến khi tâm được tập trung ở một điểm. Sự tập trung tâm ý ở một điểm nầy cũng xảy ra khi chúng ta làm việc hay vui chơi, nhưng sự tương đồng giữa tập trung và thiền định chấm dứt ở đây. Trong khi thiền định là tâm tập trung đang tiến về hướng triển khai tuệ giác, tức là tu Quán (vipassana, cũng gọi là Minh Sát Thiền). Nhận thức của tâm tự động chuyển về trên chính tâm đó, và tâm nầy tự ý tập trung trên những hoạt động hay tiến trình của chính nó, để cuối cùng đưa hành giả đến tự giác thật sự (tức đắc ngộ). Sự giác ngộ do thiền định có tính cách trực giác và tâm linh.
Trong sự xuất thần của các hoạt động như vẽ tranh hay phổ nhạc, vv... người biết, cái bị biết và sự biết không hoàn toàn biến mất. Ðiều xảy ra là, trong những giây phút hoạt động nghệ thuật cao độ đó, người nghệ sĩ kinh nghiệm được một loại hạnh phúc trong đó ý niệm về cái 'tôi' tan đi một phần lớn, nhưng không hoàn toàn. Ngoài ra, nhà nghệ sĩ cũng còn có ý thức về đối tượng, dù đó là vẽ tranh, phổ nhạc hay cái gì khác. Do đó, cái bị biết cũng không hoàn toàn tan mất. Tôi gọi loại kinh nghiệm nầy là 'kinh nghiệm bán-tâm-linh' bởi vì nó gần với kinh nghiệm xuất thần của thiền định, nhưng không hoàn toàn giống. Trên phương diện khác, loại hạnh phúc do miệt mài nghệ thuật nầy làm cho người nghệ sĩ trở nên nhạy cảm và tâm linh hơn đa số người khác.
Như vậy, hai loại hiểu biết nầy hoàn toàn khác nhau về tính chất, và nhằm những mục tiêu hoàn toàn khác nhau.
TỈNH GIÁC VÀ NHẬN THỨC
Thông thường, sự nhận thức của chúng ta rất bận bịu với tình thế bên ngoài, với những gì mà chúng ta tiếp xúc qua sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý). Nói chung, chúng ta đều phản ứng đối với những cảm xúc nầy theo thói quen. Con người lập đi lập lại việc nầy mà không nhận thức được những gì đang xảy ra trong tâm. Trong Phật giáo, điều nầy gọi là vô minh (avijja). Ðây không có nghĩa là ngu dốt về trí thức, mà đặc biệt là sự thiếu sót tuệ giác về chính mình .
Bình thường bạn cũng có thể biết bản tâm của bạn . nhưng chỉ là một cách lười biếng. Thí dụ như khi bạn trải qua một cảm xúc sôi nổi, bạn chỉ nhận biết nó khi biến cố đã xong. Ngay trong lúc náo động thì bạn bị lạc mất trong sự rối loạn. Bạn thường chú tâm đến những yếu tố bên ngoài mà bạn nghĩ là đang ảnh hưởng đến bạn . Thí dụ như trường hợp bạn đang ăn. Sự chú tâm của bạn tập trung trên thức ăn: mùi vị và hình sắc của nó. Nếu thức ăn không đúng như yêu cầu, bạn lập tức phản ứng lại với sự bực bội - hay cả đến sự nóng giận nếu gặp lúc bạn không vui. Rồi bạn có thể trút sự giận dữ của mình trên người hay vật mà bạn tiếp xúc.
Tâm tỉnh giác là tâm tự nhiên nhận thức. Không có hành động nào ở đây, chỉ là một sự tập trung và tức thời nhận biết mà nó 'thấy' được. Ở đây, sự tỉnh giác là nguyên nhân mà sự nhận thức là hậu quả. Bạn không thể tu tập hậu quả được. Bạn chỉ có thể tu tập cái gì tạo ra nó. Bạn phải bắt đầu tu tập Tỉnh Giác để cho Nhận Thức xảy ra bên trong bạn.
Thường thì tâm chúng ta luôn luôn di động, suy nghĩ, cảm xúc, lan man từ đối tượng nầy sang đối tượng khác. Bởi vì sự di động liên miên nầy mà ít có chỗ cho sự nhận thức xảy ra. Sự nhận thức có thể thoáng qua, nhưng nó rất nhát nhúa. Nó lười biếng và cùn nhụt. Thường thì những tư tưởng ồn ào và cảm xúc chế ngự bản tâm. Tâm bạn phải thoát khỏi chu kỳ miên viễn nầy để cho sự nhận thức có thể xảy ra hoàn toàn , tâm phải tự điều chỉnh, quay sự chú ý bên ngoài vào sự tỉnh giác về chính nó. Khi bạn hướng tâm như thế, bạn thay thế các hoạt động khác của tâm bằng sự tỉnh giác. Thay vì bị kẹt trong những hoạt động tâm lý đó, bạn chỉ còn lại sự 'chú tâm'. Ở mỗi giây phút, tâm chỉ có thể ở một trạng thái nào đó. Thí dụ như, khi có sự nóng giận trong tâm thì không còn chỗ cho hạnh phúc. Khi có sự tỉnh giác chiếm ngự toàn tâm thì không còn chỗ cho tư tưởng hay cảm xúc nổi lên ngay lúc đó. Chỉ có sự chú ý hoàn toàn. Khi sự chú ý nầy được trọn vẹn, cái trạng thái giao động của bản tâm bị phá vỡ, tâm bạn tìm được chỗ đứng cân bằng trong chính nó. Thế rồi sự nhận thức sẽ tự nhiên xảy tới.
TRONG GIÂY PHÚT HIỆN TẠI
Tại sao bạncảm thấy rất tươi mát khi đến một nơi hoàn toàn khác lạ với khung cảnh quen thuộc? Ðiều nầy rất thông thường. Thông thường bạn cảm thấy ngột ngạt và tù túng bởi nếp sống. Bạn cảm thấy cần rời xa tất cả, để nghỉ ngơi và để tìm những kinh nghiệm mới và có thể duy trì bản thân.
Nhưng bạn nên hiểu rằng không phải chính là cảnh sống ngột ngạt thúc đẩy bạn đi tìm thư giãn tạm thời, mặc dù điều nầy cũng giúp phần nào. Nguyên nhân chính là vì tâm bạn không được tự do nên bạn không thể kinh nghiệm được trọn vẹn và đầy đủ giây phút hiện tại.
Nhưng, bạn thử nghĩ xem, cái gì làm cho bạn cảm thấy hài lòng và thỏa mãn? Bạn chỉ được hài lòng và thỏa mãn khi nào bản tâm không còn ham muốn và bám níu, bởi vì chỉ có một tâm hồn tự do mới có thể kinh nghiệm được giây phút hiện tại một cách trọn vẹn và đầy đủ.
Ðối với một tâm hồn không còn ham muốn, không còn xung đột và bực bội, mỗi giây phút trôi qua đều tươi mát và mới mẻ. Nếu tâm bạn lúc nào cũng nặng trĩu đấu tranh và bực dọc thì bạn không thể kinh nghiệm giây phút hiện tại một cách trọn vẹn được. Không có sự trong sáng và chỗ trống cho kinh nghiệm thực tại. Trong tình hình như thế thì bạn sống trong quá khứ hay tương lai; kinh nghiệm hiện tại chỉ là một phần thôi. Bạn chỉ nhận thức được một phần của hiện tại, tạm nói như thế. Bạn không kinh nghiệm được sự tươi mát của giây phút hiện tại, và niềm hoan lạc của mọi sự vật mà bạn tiếp xúc. Do đó bạn đi tìm sự tươi mát ở nơi khác, với những người khác và những mối liên hệ khác, vv...Tuy nhiên, chu trình buồn chán vẫn tiếp tục vì cội rễ của vấn đề không phải ở hoàn cảnh mà là ở chính bên trong bạn.
THIỀN VÔ THIỀN
Bạn thấy, hình thức thiền quán định-chế đã trở nên cực kỳ phổ thông trong các xứ Phật giáo Á châu và ở Tây phương. Dù các viện chủ và thiền sư dùng phương pháp nào, ta thấy cũng có một điểm chung: một hệ thống hay hình thức trong đó thiền sinh tu tập thiền định. Do đó, thiền định đã trở nên đồng nghĩa với tọa thiền.
Bạn thấy, tư thế ngồi chỉ là công cụ cho một kỷ luật quan trọng hơn của bản tâm. Tư thế ngồi tự nó không phải là để luyện thân, mà là để luyện tâm trong nghệ thuật tỉnh giác, và tiến xa hơn nữa. Trong lối thiền chính thức, bạn chú tâm ở một điểm trên trên thân thể - có thể là hơi thở hay cảm giác - để loại trừ mọi tư tưởng, cảm xúc hay hoạt động trí thức khác của bản tâm. Trong tiến trình nầy, bạn học cách quán tâm mà không phê phán hay phân biệt, và cũng học cách buông xả.
Bạn có thể quán tâm trong khi ngồi yên lặng trong tư thế tọa thiền, hay là bạn cũng có thể quán tâm trong khi sinh hoạt thường ngày. Cách nào cũng được, tùy theo cá tính của bạn.
Trong lối thiền không định chế, bạn phải đối diện với chính mình rất thường. Muốn buông xả, trước hết bạn phải đối đầu với bản ngã và niềm tự hào của mình. Không ai muốn đối đầu với bản ngã, vì điều nầy quá đau đớn. Cần có sức mạnh tâm linh lớn mới có thể làm được. Trong lối thiền không định chế nầy, sự đối đầu với bản ngã chính nó là hành động thiền của bản tâm. Nó đòi hỏi sự tỉnh giác (sati), cố gắng, định (samadhi: tâm tập trung) và xả (upekha: tâm bình thản). Có thể là nó không cần kỷ luật nghiêm khắc cho thân thể, nhưng nhất định là nó đòi hỏi sự kiên nhẫn và kỷ luật nghiêm khắc cho bản tâm.
Chúng ta phải có đủ can đảm đối diện với chính mình. Ðó là một sự phấn đấu lớn lao, nó đòi hỏi sự cố gắng và lòng can đảm để thực hành. Nhưng thật ra, đây là một sự cố gắng mà không cần cố gắng. Trong Phật giáo gọi là Vô Vi (viriya). Ðiều nầy có thể xảy ra trong sinh hoạt thường ngày hay trong khi ngồi thiền. Ðường lối thực hành của thiền vô thiền không có một hình thức nghiêm khắc hay định chế nào, nhưng tất cả những phẩm chất của Thất Bồ Ðề Phần (bojjhanga) - tức là Bảy Yếu Tố Cho Sự Giác Ngộ - đã được gồm đủ trong tiến trình học tập. Ðó là Tỉnh Giác, Tham Cứu, Năng Lực, Niềm Vui, An Tịnh, Tập Trung và Bình Thản. Bạn đã học tập tỉnh giác với sự kiên nhẫn trong nội dung của sinh hoạt thường ngày, điều nầy làm cho tâm bạn càng ngày càng được tập trung hơn, tức là Ðịnh (samadhi). Không những thế - hành động tỉnh giác trong sinh hoạt thường ngày cũng là một tiến trình tham cứu với sự bình thản vào trong tính chất của bản tâm.

C.- LỐI SỐNG SÁNG TẠO

LỐI SỐNG SÁNG TẠO
Nhiều người cho Phật pháp có tính cách cá nhân nhưng chúng ta không phải là những sinh vật cô lập. Chúng ta sống trong xã hội. Như vậy những gì ảnh hưởng tới cá nhân sẽ ảnh hưởng tất cả những người chung quanh. Phật giáo tập trung rất nhiều trên sự giác ngộ của mỗi cá nhân. Mặc dầu Phật giáo không bỏ quên cộng đồng, nó phải bắt đầu với cá nhân. Khi mỗi cá nhân được chính trực và hoàn toàn được cân bằng ở nội tâm, tự nhiên kéo những người khác vào sự hài hoà đó, và cả cộng đồng nữa. Ðiều nầy xảy ra do hai yếu tố căn bản : kiên nhẫn và trí tuệ (panna) .
Nếu bạn kiên nhẫn và bao dung nhưng thiếu trí tuệ, sự kiên nhẫn và bao dung đó có thể mang hình thức thụ động. Trong trường hợp đó, bạn có thể tự để cho mình bị người khác lạm dụng bằng nhiều cách. Ðó không phải là lối sống thông minh, bởi vì sống thông minh là phải tránh hai thái cực: thụ động và nóng nảy.
Thời nay, người ta luôn luôn sống vội vàng và có khuynh hướng bị bịnh thiếu kiên nhẫn. Bạn bị lây bịnh thích hành động tức khắc, làm liền, khởi sự liền, và làm cái gì trong sự hối hả. Bạn không dành thì giờ để suy tư, dừng lại, nghiền ngẫm, và để cho sự vật tự chúng phô diễn. Bạn có khuynh hướng phản ứng bằng một tâm thức có nề nếp rối loạn - thay vì hành động một cách bình tĩnh và tập trung - do đó bạn tạo thêm rắc rối.
Hành động nào thiếu trí tuệ thì có tính phá hoại. Sống thông minh có nghĩa là quán xét và nhìn thấy giây phút thích hợp, cơ hội thích hợp và tình thế thích hợp để có thể hành động. Trong Phật giáo, đây gọi là Chánh Nghiệp (samma kammanta), tức hành động khôn khéo và trọn vẹn. Tóm lại, sống thông minh có nghĩa là sống khôn khéo và sáng tạo.
THƯƠNG VÀ GHÉT
Thương và ghét không khác nhau. Chúng là hai khía cạnh của tâm phân biệt, giống như hai mặt của một đồng xu. Ban đầu chúng khác nhau, nhưng chúng đều phát xuất từ thói quen phân biệt, và đều dẫn tới đau khổ. Bạn thương hay ghét một người nào là căn cứ trên sự 'thích' hay 'không thích'. Bạn tự động phân loại người khác tùy theo những định kiến của bạn. Nếu họ đáp ứng được lý tưởng của bạn và có vẻ hợp với sở thích thì tâm bạn lập tức bám níu vào họ; nhưng nếu họ thuộc loại không hợp với sở thích thì tâm bạn bắt đầu chối từ họ. Bằng cách nầy, bạn đi tới Thương và Ghét. Ðiều nầy có nghĩa là tình thương của bạn thay đổi với tình huống, có nghĩa là cảm xúc của bạn là vô thường, tương đối với thời gian và nơi chốn. Ðây là điều mà Ðức Phật gọi là Maya, ảo tưởng của tâm thức. Cảm xúc của bạn là ảo tưởng sinh ra từ tâm khái niệm; chúng phát xuất từ bản ngã. Theo Phật giáo, bởi vì bản ngã chỉ là ảo tưởng, tất cả những gì phát sinh từ tâm khái niệm cũng đều là ảo hóa. Nó không có thực chất, thường tính và bình an tính. Do đó tình thương thế tục là không bền, nó có thể trở thành sự ghét. Chúng ta tự mình không có thương và ghét. Chỉ khi nào bạn bắt đầu thích hay không thích thì bạn mới bị rắc rối bởi cảm xúc sau đó. Ngay khi bạn vừa nhận ra rằng chúng nó chỉ là ảo tưởng do bạn tự tạo ra, bạn được tự do. Bạn đã trở về tình trạng ban đầu trong đó không có thương và ghét.
HẠNH PHÚC
Không có cái gì gọi là cảm giác hạnh phúc thường trực và vĩnh cữu trong cõi đời nầy. Khi bạn gặp người, sự vật, hoặc biến cố làm bạn hài lòng – bạn có cảm giác sung sướng hay khoái lạc - nhưng đó chỉ là tạm bợ.
Bạn mơ ước cảm giác khoái lạc, nghĩ rằng nếu chúng ta có được tất cả những gì mong muốn thì bạn sẽ được hạnh phúc. Khi bạn cố tìm hạnh phúc ở bên ngoài, cuối cùng bạn ở trong vòng lẩn quẩn. Bạn không bao giờ có được sự thỏa mãn trọn vẹn từ người khác, và bạn cũng không thể cho họ điều đó được. Ngay khi bạn cố tìm hạnh phúc, thì bạn đã ở trên con đường không hạnh phúc rồi. Bạn chỉ tìm được hạnh phúc khi bạn ngưng đi tìm nó. Ðó là mâu thuẫn. Ngay giây phút bạn muốn hạnh phúc, bạn bắt đầu bám níu vào nó trong bản tâm. Trước tiên, bạn bám níu vào ý niệm riêng của con người về hạnh phúc. Bạn liên hệ với thế giới bên ngoài như là suối nguồn thỏa mãn và bạn đi tìm những gì bạn cho là có liên hệ với hạnh phúc - như là gom chứa tài sản, thành công, danh vọng hay quyền thế. Ngay khi bạn bám níu với bất cứ ý niệm nào - hạnh phúc, thành công hay cái gì khác – bạn đã bị căng thẳng rồi. Sự bám níu chính nó là một tình trạng căng thẳng, và những gì phát xuất từ nó cũng là căng thẳng. Thí dụ như bạn nắm tay lại thành một nắm. Ngay khi bạn bắt đầu nắm tay lại, bạn phải dùng năng lượng để giữ cho các ngón tay liền chặc với nhau. Khi bạn buông nắm tay, bàn tay bạn lại được tự do. Tâm của bạn cũng thế. Khi nó ở trong tình trạng nắm chặc, nó không bao giờ có tự do. Nó không bao giờ có thể kinh nghiệm được bình an và hạnh phúc, dù cho bạn có được tất cả tài sản, danh vọng và quyền lực trên thế gian nầy.
Vậy thì làm sao chúng ta có lối thoát? - Chỉ có cách buông xả thôi , buông xả dục vọng muốn được hạnh phúc của bạn.
LÒNG TỪ BI
Tâm Bi (karuna trong tiếng Pàli) là một trong bốn vô lượng tâm (brahma viharas), tức là bốn đức tính tự có sẳn của Trí Tuệ (panna). Ba đức tính khác là tâm Từ (metta: tình thương vô điều kiện), tâm Hỉ (mudita: tâm hoan hỉ, không ghen ghét) và tâm Xả (upekha: tâm bình thản). Một hành động bi mẫn không phải biệt lập, mà nó cũng biểu hiện những đức tính khác của Trí Tuệ. Bạn cũng phải phân biệt giữa việc làm tròn bổn phận một cách lãnh đạm, và hành động với tâm Từ và tâm Bi. Chỉ có một sự cách biệt rất nhỏ giữa hai loại hành động nầy. Sự lãnh đạm là kết quả của sự thiếu quan tâm, thiếu tình thương. Trong khi đó sự bình thản phát sinh từ trí tuệ và tình thương. Tự nó không phải là một đức tính biệt lập. Nó là một phần trong toàn bộ của Trí Tuệ, tâm Từ, tâm Bi và tâm Hỉ. Cũng thế, tâm Bi không phải là cảm xúc biệt lập. Nếu nó biệt lập thì đó có thể chỉ là cảm xúc phát sinh do sự điều-kiện-hóa hạnh kiểm dựa trên ý tưởng về lòng Bi, chớ không phải thật sự là lòng Bi. Lòng Từ và lòng Bi thật sự, là những biểu hiện tức thời của Trí Tuệ (panna). Nếu có Trí Tuệ thì đã có Từ, Bi, Hỉ và Xả rồi. Như vậy ,trí tuệ và tình thương sẽ kiểm soát và quân bình tâm Xả .Tình thương giữ cho bạn còn dấn thân vào tình thế; lòng Bi làm cho bạn hòa đồng với người khác, sự bình thản (tâm Xả) giúp bạn siêu thoát cảm xúc và nhìn sự vật một cách khách quan; và trí tuệ giúp bạn nhận ra giải pháp đúng đắn cho vấn đề hay tình thế, có lợi cho chính bạn và người khác.
Tâm Hỉ là niềm vui có thể đến trong toàn bộ hành động nầy . Một hành động sẽ không có niềm vui nếu nó được làm trên căn bản bổn phận thuần túy. Niềm vui cũng thiếu nếu bạn giúp người vì thương hại. Bổn phận và sự thương hại thì chưa đủ cho lòng Bi thật sự. Niềm vui chỉ có mặt khi hành động phát xuất từ trí tuệ, tình thương, lòng bi mẫn và sự bình thản. Hành động đó đầy niềm vui vì nó không bị câu thúc bởi sự bám níu hay đè nặng bởi lo âu và căng thẳng.
Tình thương và niềm vui làm cho lòng Bi được vững bền. Người ta không bỏ cuộc dễ dàng cho đến khi đạt được kết quả tốt trong nghịch cảnh. Một hành động đầy niềm vui không bám níu vào cảm xúc sẽ làm cho sự dấn thân được hoàn mãn.
Tâm thức phải hoàn toàn không bị bám níu thì lòng Bi mới thật sự đến. Mỗi tình thế là duy nhất và không giống với tình thế khác, nên chúng ta phải đối phó với nó một cách khác biệt, tùy theo yêu cầu và lợi ích của tình thế cá biệt đó. Nếu không có tuệ giác sáng tỏ và nếu hành động của bạn đem lại tai hại, thì bạn và người khác phải đau khổ một cách vô ích.
TÂM BÌNH THẢN VÀ TÂM LÃNH ÐẠM
Trước đây, bạn bị điều kiện hóa để bám níu vào tất cả. Khi bạn học Phật pháp, bạn được dạy cách tách ly hay buông xả; tuy nhiên thay vì bám níu vào mọi sự vật, bây giờ bạn lại bám níu vào ý niệm buông xả. Do đó bạn bị điều kiện hóa quá mức theo chiều ngược lại. Bạn buông xả hầu như tất cả. Do đó khi phải đối diện với một tình thế, bạn có khuynh hướng buông xả cả tình thế lẫn nhân vật. Kể cả buông xả cũng có thể trở thành thói quen. Ý niệm buông xả cũng chỉ là một khái niệm. Khái niệm nầy có ích khi bạn bắt đầu học Phật, hay khi bạn tu tập thiền định. Nhưng cuối cùng bạn trở thành quá giỏi trong việc tách ly, đến nỗi bạn không nhận ra là mình đang bám níu vào một khái niệm khác. Từ khái niệm bản ngã bạn chuyển qua khái niệm vô ngã, cái ý tưởng là 'nó không can hệ gì đến tôi'. Ðiều nầy dẫn đến sự dửng dưng và thiếu quan tâm đến người khác. Do đó, bạn có thể vô tình đóng kín lòng mình và cả trái tim đối với những người thân nhất. Ðiều nầy tạo ra ngăn cách giữa bạn và những người liên hệ. Ðây chính là sự lãnh đạm . Tình thương chỉ đến trong một tâm hồn hoàn toàn tự do, không bị dính níu với bất cứ khái niệm nào - ngay cả với khái niệm buông xả. Bạn phải học cách tự giải thoát mình khỏi khái niệm buông xả bằng cách tỉnh giác về giây phút hiện tại. Chỉ trong những giây phút tâm được hoàn toàn tự do thì sự bình thản (tâm Xả) mới siêu thoát được cả hai tình trạng tâm thức dính níu và tách ly.
LẠC THÚ GIÁC QUAN
Rõ ràng là xã hội tân thời đã quá chú trọng đến lạc thú xác thân đến nỗi trở thành nô lệ cho chúng. Chúng ta hãy nhìn một cách khách quan vào cội rễ của vấn đề. Bằng không, chúng ta lại rơi vào cạm bẫy của sự chối bỏ thế giới giác quan hay chạy trốn nó, và cuối cùng thì điều nầy cũng tai hại như là làm nô lệ cho chúng. Có thể chúng ta bị kẹt cứng trong sự chối từ thế giới giác quan.
Nếu bạn nghĩ rằng quá chú tâm tới thế giới giác quan là cội rễ của vấn đề, thì bạn có thể có cảm giác tội lỗi khi hưởng thụ lạc thú. Bạn có thể trở nên sợ hãi việc kinh nghiệm lạc thú giác quan. Ðiều nầy dẫn tới sự trốn tránh và ám ảnh sợ hãi, nếu bạn không cẩn thận.
Sự khao khát lạc thú xác thân phần lớn là do cảm giác bất an và sự thiếu tuệ giác. Bạn không biết mình thiếu cái gì, nên chạy tìm ở bên ngoài. Bạn cố lấp đầy khoảng trống cảm xúc bằng đủ loại giải trí. Và dĩ nhiên, với ngành thương mại ào ạt hiện nay, việc thuận tiện nhất cho bạn là đắm mình vào đủ loại kinh nghiệm đem lại lạc thú giác quan. Nhưng rồi thế nào bạn cũng nhận thấy là chu trình trụy lạc - tìm kiếm không có chấm dứt. Không thể có sự thỏa mãn tuyệt đối và bền lâu từ lạc thú xác thân, bởi vì bạn không có tự do trong giây phút hiện tại.
Tâm trong tình trạng bất an, cần phải bám níu vào một cái gì - sở hữu vật chất, lạc thú giác quan, giải trí, tài sản, danh tiếng, thành công, ...gần như bất cứ thứ gì trên thế gian nầy - để lấp đầy khoảng trống cảm xúc. Thật ra, những thứ nầy chỉ cho bạn cảm giác an ninh giả dối hay sự thỏa mãn tạm thời thôi.
Chính là sự tìm kiếm an ninh đã làm cho tâm bạn bất an; bởi vì tâm bị trói buộc vào sự tìm kiếm cho nên nó không được tự do kinh nghiệm những gì có thể tìm được trong giây phút hiện tại. Bạn có khuynh hướng phóng tâm vào tương lai, cho nên bạn không thể sống hoàn toàn trong giây phút hiện tại; chúng ta chỉ kinh nghiệm được hiện tại phần nào thôi. Do đó bạn không kinh nghiệm được sự tươi mát của giây phút hiện tại. Nhưng nếu mỗi giây phút xảy tới được kinh nghiệm trọn vẹn, vẻ đẹp và niềm vui của khung cảnh chung quanh sẽ trở nên rất hiển nhiên đến nỗi bạn không cần tìm sự thỏa mãn ở nơi nào khác.
Bạn hãy trở lại cách sống tỉnh giác với giây phút hiện tại.
Tỉnh giác về thân thể giúp bạn hiện hữu trong giây phút hiện tại, nhưng điều quan trọng nhất là nhận biết sự tự do của chính mình trong giây phút đó. Nếu bạn bắt đầu muốn nầy muốn nọ, nghĩ về quá khứ và nghĩ cách hưởng thụ trong tương lai, bạn không còn tự do. Giây phút hiện tại bị dục vọng xâm chiếm và do đó sự tự do bản nhiên của bạn trong giây phút đó sẽ bị mất đi. Từ đó, bạn trở về với sự tự do bản nhiên trong giây phút hiện tại, và bạn có thể kinh nghiệm mọi sự liên hệ một cách tươi mát, trong đời sống thường ngày. Ngay cả những sự vật bình thường nhất cũng trở nên hoàn hảo, và bạn không cần phải đi tìm tự do ở nơi nào khác hay lệ thuộc vào những kinh nghiệm mới và lạc thú xác thân. Bạn thấy, sự tự do bản nhiên trong chúng ta là một cái gì vĩnh cữu, bởi vì nó là bản chất bẩm sinh của sự hiện hữu nơi chúng ta; nó là một món quà thiên nhiên của đời sống. Tất cả những gì bên ngoài chúng ta đều là giả tạo và kém khuyết.
Như vậy, để có tự do đối với lạc thú giác quan không phải là bám níu hay chạy trốn nó, mà bạn phải học cách để được tự do nội tâm. Từ căn bản tự do bên trong nầy, các giác quan không còn đe dọa hay lôi cuốn bạn được nữa. Do đó bạn có khả năng kinh nghiệm lạc thú giác quan mà không trở thành nô lệ cho chúng.
HÌNH THỨC BÊN NGOÀI
Xã hội chúng ta cần vài loại hình thức. Người ta mong đợi bạn xử sự theo cách nào đó, và ăn mặc theo một lối nào đó. Chân lý tương đối nầy gọi là Pannati. Nó có nghĩa là hiểu biết hình thức nào thích hợp cho tình thế đó. Nhưng nếu bạn bám níu vào hình thức, tâm bạn trở nên cứng ngắc và bạn làm nô lệ cho hình thức. Ngược lại, nếu bạn chối bỏ hình thức mà bạn đang ở trong đó, bạn cũng bị nô lệ hóa vì khi bạn chối từ cái gì, bạn đang bám níu vào sự chối từ đó. Tâm bạn bị dính níu vào sự chối bỏ. Dù bám níu hay chối bỏ, tâm bạn bị dính níu và không bao giờ thoát khỏi sự xung đột. Bạn phải siêu thoát nhị nguyên của hình thức và không hình thức.
Bạn bám níu hay chối bỏ bởi vì bạn đã dựng lên sự 'thích' hay 'không thích' trong tâm. Có thể là bạn chối bỏ một hình thức qui định. Mặc dù chân lý nầy là tương đối, nó vẫn là qui tắc được chấp nhận trong lúc đó. Nếu bạn nổi loạn chống lại hình thức, bạn không thể chấp nhận sự vật đúng như thực tế. Chính là vì sự phán đoán giá trị mà bạn không thể nhìn sự vật 'như chúng là'. Bạn nhìn sự vật theo lối suy tư của bạn Sự thích và không thích trở thành khuôn mẫu định chuẩn của bạn. Bạn chối bỏ ngay những gì không thích hợp với khuôn mẫu. Ngược lại nếu cái gì hợp khuôn thì bạn ôm lấy làm sở hữu. Tâm bạn luôn luôn nhảy chuyền giữa hai thái cực nầy, bám níu và chối bỏ. Khi nào bản tâm còn bị phân cực như thế, bạn luôn luôn bị dính níu vào thích và không thích, thì làm sao bạn có thể nhìn hình thức đúng như thực tế? Bạn không cần làm gì khác trừ việc học cách giữ tâm im lặng, không phán đoán hình thức. Khi bạn ngưng phán đoán thì thích và không thích cũng ngưng, và bám níu hay chối bỏ cũng không còn. Một khi dừng phán đoán, bạn sẽ thấy hình thức là hình thức, không hơn không kém. Bạn sẽ thấy nó 'như nó là' và bạn có thể liên hệ với nó một cách tự do.
Không bị cản trở bởi chối bỏ hay bám níu, bạn có thể hoạt động với cả hình thức hay không hình thức.
NHẬN THỨC BÌNH THƯỜNG
Khi bạn nhận thức được một sự yên tịnh thật là bình an và tuyệt vời bên trong, đến nỗi bạn cảm thấy như là mình đang sống trong một tổ kén. Ðấy chỉ là một giai đoạn. Nó sẽ trôi qua, và sau đó sẽ trở thành bình thường. Sự bình an không có gì đặc biệt. Ðây chỉ là lúc ban đầu. Cảm giác tuyệt diệu nầy - hay bạn gọi nó là cái gì cũng được - sẽ tan đi giống như mọi chuyện khác. Ngay lúc nầy, bạn cảm thấy mình cách biệt với người khác, và có thể nghĩ là mình ở trên họ. Thật ra, không có trên hay dưới. Chúng ta đều là con người. Mỗi người trong chúng ta đều có sự yên tịnh nội tâm. Chúng ta không hơn hay kém người khác trên phương diện nầy. Bạn chỉ được may mắn hơn người khác là bạn được ở trong hoàn cảnh có thể học tập để kinh nghiệm được tính bản nhiên nầy.Hầu hết người ta không nhận thức được sự bình an nầy bởi vì họ bị kẹt cứng với cảm xúc và những gì xảy ra bên ngoài họ. Trong Phật giáo gọi đây là lầm lạc (moha). Sự kiện bạn biết quán tâm không làm bạn khác biệt với người khác. Nếu bạn nghĩ mình khác biệt, bạn tạo ra một hố sâu giữa họ và bạn. Bạn tạo ra một phân cách tâm lý và không bao giờ có thể hòa đồng với họ.
Bạn không bao giờ đánh mất bình an, nó lúc nào cũng ở đó. Chỉ vì bạn quá bận bịu với cảm xúc nên không nhận thức được tình trạng bình an của bạn . Tình trạng bình an nầy không có gì đặc biệt. Nhưng bạn phải rất cẩn thận ở đây. Nếu bạn cứ nghĩ sự yên tịnh nầy là đặc biệt, bạn bám níu vào nó. Sự bám níu nầy rất tế nhị và tinh vi nên rất khó nhìn ra trong tâm. Bạn không nhận ra là mình vẫn còn đi trên con đường bản ngã vi tế. Khi điều nầy còn xảy ra thì, dù cho bạn có kinh nghiệm được an tịnh qua Ðịnh đi nữa, vẫn không có cơ hội cho Trí Tuệ (panna) xảy tới.
Một tâm thức rất tập trung, nếu chưa được hoàn toàn tự do, vẫn cản trở sự xuất hiện của trí tuệ. Bạn thấy, khi đạt được định, mặc dầu bạn có thể phá trừ phiền não phần nào, chúng vẫn chưa dứt tuyệt. Sự tập trung (định) giúp tâm mình có được sự nhạy bén hơn bình thường. Sự nhạy cảm là cái gì kinh nghiệm được bình an và im lặng một cách rõ ràng. Nhưng an tịnh do sự nhạy cảm đem lại có khuyết điểm là rất độc đáo và tuyệt vời nên người ta hay bám níu vào nó. Do đó mình trở thành quan trọng. Nhiều người bị kẹt cách nầy và không thể tiến xa hơn từ đó. Ngay cả trong định tọa thiền (jhanic samadhi), sự đạt ngộ hay vô ngã (anatta) chỉ là tạm thời. Sau đó, ta trở về ý thức bình thuờng.
Sự xuất hiện của tuệ giác trong 'định tạm thời' thì xảy ra với ít hay không có những kinh nghiệm huyền diệu hay cảm giác hạnh phúc tuyệt vời thường gặp trong 'định tọa thiền'. Do đó hành giả không có cơ hội bám níu cảm giác hạnh phúc. Trước khi họ biết nó, thì họ đã trở lại với ý thức bình thường rồi.
Tinh yếu của con đường tâm linh chỉ là ở cái đẹp của sự bình thường, trong vòng thế tục và trong sự siêu thoát ngăn cách giữa tâm linh và sự bình thường. []

LÊ TẤN TÀI tóm lược

* Nguyên tác bản dịch