Non bộ là nghệ thuật xây dựng, sắp đặt một mô hình thu nhỏ các ngọn núi giả (giả sơn) như những khung cảnh thật bên ngoài. Thế giới thiên nhiên của núi đồi, khe suối, sông hồ... được sàn lọc kỹ càng, thu gọn vào khung cảnh nhỏ riêng tư, tạo thành một thế giới tượng trưng trong một giới hạn nào đó. Nói cách khác, non bộ là một vùng thiên nhiên hùng vĩ với núi rừng, hang động, ghềnh thác, sông biển, được nghệ nhân thu nhỏ lại bằng đất đá.., trình bầy, xếp đặt, tạc giũa, đục đẽo, tạo cảnh thật hay cảnh tưởng tượng, để thiết trí trong vườn cảnh, trong hồ cá, hoặc ngay trong chậu cạn, điểm xuyết thêm vài đám rêu xanh cỏ dại, cây cối nhỏ bé có vóc dáng cổ thụ và một số hình tượng nho nhỏ bằng đất sét, sành sứ... như mục đồng, ngư ông, tiều phu, tiên ông, đạo sĩ, chùa tháp, đền miếu, cầu đường, ghe thuyền, thác nước đổ, phun sương, phun khói, cù lao, muông thú.. để diễn tả một câu chuyện, một sự tích, làm cho non bộ có nội dung linh hoạt, gợi hình, gợi cảm.
Non bộ là một thú chơi tao nhã, giàu tính nghệ thuật của các dân tộc Á Đông như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Thái Lan, Việt Nam ...



        Lịch sử chơi non bộ bắt nguồn từ đời nhà Hán. Theo tài liệu của Võ Văn Chí, nhà cự phú Viên Quảng Hán trong tác phẩm “Cấu thạch vi sơn” (Dựng đá làm núi) có tả cảnh hòn non bộ. Những bức họa trên tường đời Đông Hán (25 – 220 sau Công nguyên) còn lưu lại cảnh cây trồng trong chậu, kèm theo vài tảng đá. Vào đời nhà Đường (618 – 907), các mảnh vườn, mảnh đất hoang trống cạnh nhà, người ta tạo ra các non bộ thể hiện ý nghĩa chân thực của núi sông hùng vĩ, sơn thủy hữu tình. Theo Đại Việt Sử Ký thì tháng 6 năm Ất Dậu (985) vua Lê Đại Hành, nhân lễ sinh nhật vua người ta đắp quả núi giả trên chiếc bè giữa sông để vua quan đi thuyền chung quanh thưởng ngoạn. Sách chữ Nho "Nam phương danh vật bị khảo" thì nhắc đến trong dân gian cũng chơi "bồn trì" và "giả sơn" tức là "bể cạn" và "non bộ". Vậy thì rất có thể cái thú vương giả này đã từ trong cung đình truyền ra dân gian rồi ngày càng phổ biến. Một số hòn non bộ đã có từ lâu đời ở Hà Nội như: vùng núi Nùng (Bách Thảo), khu Vân Hồ, chùa Quan Thánh, Quốc Tử Giám…Yếu tố non bộ của người Việt có sự biến tấu, sáng tạo, kết hợp thêm với phần nước. Còn người Nhật và người Trung Hoa lại chú trọng nhiều hơn đến yếu tố cây xanh.

        Có nhiều trường phái nghệ thuật non bộ. Trường phái Trung Hoa khai thác tối đa tương quan từ đá, nước, cây cỏ để hoàn thành một cảnh trí thơ mộng, thanh thoát. Sử dụng những khối đá nhỏ ghép lại để thành núi cao, dùng cây cỏ để tô điểm tô cảnh trí núi non, lấy nước làm huyết mạch cho sự sống, miếu đền, chim cá làm tinh thần, tạo ra những ngọn núi đơn, cao vút thể hiện ý chí ngút trời của con người. Hòn non bộ Trung Hoa thể hiện từ cực tiểu đến cực đại.
Ngược lại, trường phái non bộ Nhật Bản lại mang đậm dấu ấn của Phật giáo Thiền Tông Nhật, thể hiện từ cực đại đến cực tiểu. Trên đỉnh núi cao vút trời, là những hình ảnh Thực, dùng cái hình để mô tả cái hư. Hư của cảnh, hư của hư vô, hư của thời gian. Hòn non bộ Nhật thường chỉ dùng những hòn đá tự nhiên, mang những vân thô, trên đó bằng nội tâm, nghệ nhân trình bày đủ các dáng vẻ của non bộ. Đây là ngọn núi cao chon von hay dải núi dài triền miên, trùng điệp. Đây là hang động, đây là bậc đá dẫn về một ngôi cổ tự nằm khuất sau vách dựng. Đây là dòng nước bạc được phát xuất từ đỉnh non cao rồi tràn chảy về xuôi, đi qua khe núi, suối nhỏ, sườn đồi, ao đầm.. Đây là con đường dẫn về nguồn cội, vết tích đánh dấu bước thằng trầm cuộc hành hương vĩ đại của con người. Đây là sự nên thơ, êm đềm của suối, của trăng, của nước. Đây là một hồ cạn, trong đó được gắn vài hòn đá, có nước hay cát làm nền, một con thuyền dựng men ghềnh mô tả cuộc hành trình của một đời người đi từ bến mê đến bờ giác, mỗi một yếu tố, người xem phải suy ngẫm để thấy, để nghe, để hình dung ra tất cả cảnh trí từ sự tĩnh mịch, lặng yên của một ngôi đền, một cảnh chùa, đến quang cảnh trời quang mây tạnh, hay trời vần vũ chực nổi cơn giông trút nước xuống núi non, cây cỏ.

        Rất khó tạo ra được một cảnh hoàn toàn giống với thiên nhiên, nhưng các nghệ nhân cố gắng bố trí các hòn đá để đạt được sự cân đối giữa Âm với Dương, giữa sự liên tục với rời rạc. Nghệ thuật tạo ra non bộ dựa theo ba nguyên tắc: “dàn trải”, “trí tuệ”, và “uyển chuyển”. Những hòn đá thường dựng đứng và đơn độc, đỉnh của các hòn đá có kích thước lớn hơn đế một cảm giác nhẹ nhàng như thể các viên đá đang cất mình bay lên (dàn trải). Giữa các hòn đá có những khe nhỏ thông nhau (thể hiện sự thông suốt của trí tuệ). Và những hòn đá này chỉ cho phép nước chảy từ một vũng nhỏ trên đỉnh xuống từng giọt một, nhưng không quá nhanh (uyển chuyển).
Vị trí đặt non bộ cũng rất quan trọng, trong một khu vườn nhỏ, hòn non bộ nên đặt đối diện với bức tường trắng, đấy là phông của tờ giấy vẽ lên hình ảnh hòn non bộ. Sân nhỏ, hòn non bộ thường được xếp rải rác. Không gian rộng hơn, có thể dựng những khối đá có kích thước lớn để tạo cảm giác như đang đứng trước một ngọn núi thật. Những khối đá lớn còn được sử dụng để phân chia không gian, theo phong thủy, sử dụng như vật ngăn cản những điều xấu xa và ngăn ngừa "tà khí" xâm nhập vào khu vườn trong. Trong sân vườn, hòn non bộ được đặt ngay phía sau sảnh vào vườn, để hạn chế tầm mắt của người xem nhìn thẳng vào phía trong khu vườn, làm cho không gian thêm phần bí ẩn và huyền ảo.
Các hòn non bộ còn được đặt trong bể nước. Thiết kế bờ đá uốn khúc quanh co, đem lại vẻ đẹp tự nhiên cho bể nước. Đá tượng trưng cho sự rắn rỏi, nước tượng trưng cho sự mềm mại, vốn là hai cực giao hòa và tác động lẫn nhau trong triết lý Lão giáo. Ngày nay, vì không có một không gian rộng rãi, non bộ được đơn giản hoá để phù hợp với khung cảnh. Một hòn non bộ đặt trong bể cạn hoặc trên một tấm kính sẩm màu chẳng khác nào một cù lao giữa biển, kích thườc lớn nhỏ tùy theo quan niệm và sở thích của người chơi. Cho nên cảnh quan của non bộ mỗi nơi mỗi vẻ, tùy theo chủ nhân xếp đặt, bày biện.
Trong non bộ, núi và nước là 2 thành tố quan trọng nhất, chiếm không gian lớn nhất, trực quan nhất. Cây xanh chỉ để tô điểm thêm nét tự nhiên cho núi, không phải trọng tâm của non bộ nên thế dáng cây không nghiêm ngặt như trong nghệ thuật cây cảnh. Người, muông thú, tháp, chùa, nhà, đường đi, suối, cầu chỉ hổ trợ để non bộ sinh động hơn. Như vậy, để hài hòa âm - dương, nếu non bộ có 2 hòn (song phong) thì một hòn đặt gần tâm (dương) và một hòn đặt xa tâm chậu (âm). Non bộ có 3 hòn mà chậu mang tính dương (vuông, chữ nhật) thì tăng số hòn ở xa tâm (âm), chậu mang tính âm thì tăng số hòn ở gần tâm để cân bằng âm - dương.
Núi được làm từ đá. Đá phải vừa cứng để được bền vững, vừa có lỗ rỗng để cây bám vào. Đá thấm nước, nhũ đá vôi, san hô, đá lũa dễ hút nước từ trong bồn lên để nuôi cây được coi là thích hợp nhất. Đá có hang hốc sẵn, đá liền khối, đá ít gắn ghép, mối ghép càng ẩn càng tốt. Người Nhật, người Hoa thích đá có hình thù kỳ dị nhưng người Việt lại thường chọn đá có dạng giống ngọn núi, hình người, hình thú.
Nước là thành tố quan trọng thứ 2 sau núi. Độ sâu của bồn nước không cần quan tâm nhiều nhưng không gian mặt nước là điểm thiết yếu. Người châu Âu thích nước ở trạng thái động. Vì vậy, non bộ của người châu Âu thường có thác nước, guồng quay nước, máy tạo sóng. Người Việt Nam thích nước ở trạng thái tĩnh nên non bộ của người Việt thường để mặt nước yên tĩnh.
Cây phải được gắn vào sườn núi, thường là sanh, si, cừa, đa, đề, trúc..., là những loại cây có thể sống bám đá, có bộ rễ khỏe, sức sống mãnh liệt, tuổi thọ cao, dễ làm nhỏ, thân dễ uốn, cành dễ cắt tỉa, có vẻ đẹp hoang sơ. Cây không nên quá nhiều, quá rậm làm che mất đá. Nếu có thể, nên có rêu để tạo vẻ cổ kính và che đất trồng, chống xói đất.
Cầu là vật nối liền âm - dương. Vì vậy, tuyệt đối không được đặt 2 đầu cầu lên 2 địa hình dương (2 đầu cầu đều đặt vào chỗ nhô ra hay 2 mỏm cầu đều lộ ra), hoặc 2 địa hình âm (2 đầu cầu đều đặt vào chỗ lõm vào hoặc cả 2 đầu cầu đều bị khuất bởi gốc cây hay mỏm đá) mà phải 1 bên dương, một bên âm.
Các vật khác tùy thuộc vào chủ đề, kích thước, vật liệu mà chọn loại, số lượng gắn tương thích, kỵ gắn quá nhiều, gắn không đúng chủ đề, gắn không đúng tỉ lệ kích thước. Ở Trung Quốc, trên non bộ thường được gắn gốm, sứ mô phỏng các nhân vật trong Tây du ký, Tam quốc, Thủy hử, Hồng lâu mộng,... Ở Việt Nam, gần như non bộ nào cũng có gốm sứ, hoặc mượn các điển tích của Trung Quốc, hoặc chỉ quanh quẩn với “Ngư, Tiều, Canh, Mục”, 2 ông tiên đánh cờ, đọc sách, uống rượu bên cạnh cầu, ngôi nhà tranh, có sáng tác thêm cũng chỉ là con nai vàng gậm cỏ... Gần đây có thêm nhiều mẫu mới nhưng phần lớn chưa gắn với các nhân vật, địa danh lịch sử của đất nước, quê hương.
Đường nét sắc cạnh, ăn sâu hoặc nổi rõ lên thuộc dương. Đường nét mềm mại, mờ nhạt thuộc âm. Người thiết kế non bộ cần tạo sự hài hòa về đường nét để vừa bảo đảm thẩm mỹ, vừa bảo đảm luật âm - dương.
Tùy theo sở thích, người thích tạo núi ở đất cạn, hoặc núi trong bể cảnh, người thích dáng núi Phương Nam, dáng núi Phương Bắc. Nghệ thuật của người chơi non bộ là đục núi, ghép núi, thiết trí các đường nét, các hang động, rêu phong, đường mòn, một chú tiểu phu, vài con nai ngơ ngác ...sao cho hợp lý, không gượng ép để người thưởng ngoạn thấy được sự hùng vĩ, hiểm trở, hoặc phong cảnh thơ mộng, hữu tình.
Ở Việt Nam, một hòn non bộ thường được trình bày giống như bài thơ sau:
"Núi đá cheo leo đứng một hòn
Suối đào róc rách dười sườn non
Buông cần ngư phủ ngâm khoan khoái
Chặt củi tiều phu hát véo von"

Kiểu dáng ưa thích của người Việt là tạo dựng lại những danh lam thắng cảnh, hang động, thác ghềnh nổi tiếng như vịnh Hạ Long, Hòn Gà Chọi, Hòn Chồng, Hồ Ba Bể, Bích Động, núi chùa Non Nước, Hòn Vọng Phu... Hoặc sáng tạo các dạng lạ theo trí tưởng tượng, thần thoại, các sự tích tôn giáo, các hình thể mỹ thuật theo qui ước cổ điển, các dạng linh vật như Thiềm thử quá hải, Mãnh hổ khai địa, Phượng hoàng đảo dực, Sư tử hí cầu, Hoàng hạc hạ sơn (một sơn thể), Long phụng giao đầu, Lưỡng long tranh châu, Phụ tử tình thâm, Mẫu tử tình thâm, Đồng tử bái Quan Âm (hai sơn thể), Thiên địa nhân, Tam Cương (ba sơn thể), Tứ quí (bốn sơn thể), Ngũ hành, Ngũ thường, Ngũ nhạc (năm sơn thể), Thất hiền (bẩy sơn thể), Bát tiên (tám sơn thể), Quần lập (nhiều sơn thể), v.v....
Hình thể núi gồm:
- Thế độc phong: Thể hiện sự uy nghiêm, oai phong, độc tôn, thế núi này thể hiện sự đơn độc, xung quanh không có gò, đồi, cây cúi, ngọn núi cũng cao, hiểm trở, chóp núi nhọn, nhấp nhô. Phù hợp với người có phong thái ngạo nghễ, kiêu hãnh, đầu đội trời chân đạp đất.
- Thế song phong: Là 1 cặp núi, chóp núi chẵn, bao gồm 2 ngọn núi song song, thể hiện sự đơn phương độc mã. Hai núi ngang nhau là đối kháng, chênh lệch thì được ví von như đôi phu thê, hình ảnh mẹ con hay cha con đơn độc, lạnh lẽo.
- Thế đa phong: Phổ biến nhất trong sân vườn là quần thể ngọn núi tạo thành thế trường sơn, các dãy, ngọn núi cao thấp khác nhau, thoải dần từ tâm ra xa, có làn nước uốn lượn giữa các chân núi. Núi đặt dưới thấp hơn tầm mắt để khi nhìn dễ cảm thấy như một vùng trời nước bao la.
- Thế kỳ phong: Đứng cách biệt so với các núi khác, ngọn núi cao, lạnh lùng, bí ẩn, gây sự tò mò.
- Thế cương lĩnh: Núi thấp, thoai thoải, chóp núi tròn đầu, mang đến sự an lành, hiền hào thích hợp với các cảnh chăn trâu thả diều, tiều ngư câu cá…
- Thế long thăng: “Rồng bay lên trời” hiểm trở, ngoằn nghèo, sườn nghiêng dốc, thể hiện sự vươn mình trỗi dầy, không khuất phục gian khổ.
- Thế lập chương: Cao, rộng, có đoạn bằng phẳng nhưng có đoạn nhấp nhô, hiểm trở tựa như cuộc đời, là minh họa của dòng đời nên được nhiều gia chủ ưa chuộng.
- Thế kỳ nham: Sáng tạo, mang ý nghĩa thưởng ngoạn, có thể được đúc theo các hình ảnh thực tế như Vịnh Hạ Long hay Hòn Vọng Phu…
- Thế huyền nham: Thế này cũng có một ngọn trông cao vút, chân vững vàng nhưng thế núi như treo, trong thế đổ gục. Trên ngọn có thể đặt đình tạ và một cây có thế huyền hay hoành để như ấn thêm ngọn núi xuống.
- Thế bích lập: Thế núi có một mặt phẳng đứng như tường vách, cũng chỉ cần một ngọn, chân núi vững chắc có thể thót vào ở một phía. Cây cối, bể cạn, vị trí đặt bể gần giống như thế độc phong.
Ngày xưa, các cụ thường chơi thế núi đa phong, cho thế độc phong là ngạo mạn, thiếu khiêm tốn. Nó chỉ được tạo ra bởi những người có chí ngang tàng, bất khuất. Thế núi huyền nham thường kiêng kỵ, bởi sợ chủ của nó sẽ bị những sự đổ vở không hay.
Khi tạo dáng non bộ phải theo luật Năm Không:
- Không xuyên tâm: điều cấm kỵ là để một lỗ xuyên từ bên này qua bên kia thân hòn non bộ.
- Không phản chủ: là phải có hòn chủ to cao, dứt khoát, giữ vai trò sinh mệnh của hòn non bộ - phân biệt rõ chủ khách...
- Không cắt đầu: hòn núi chính và các ngọn núi không bị cắt đầu bằng ngang nhưng cũng không nên để đầu nhọn quắc không đẹp, làm sao cho ngọn núi phải nhấp nhô, không nhọn, không bằng, tự nhiên mới đẹp.
- Không triệt bộ: là phải có đường nhỏ để đi - hợp tình hợp lý chớ không bị dẫn đến đường cùng không có lối thoát...
- Không vô lý: nhà cửa, người, thú phải đúng tỷ lệ, không để mục đồng chăn trâu và ngư ông ngồi câu cá trên đỉnh núi, không để con dê, con trừu kế bên con beo, con hổ... Tóm lại phải thực tế, giống khung cảnh của thiên nhiên, trái ngược lại quy luật tự nhiên là không đẹp.

        Nghệ nhân có những bí quyết, kỹ xảo độc đáo là tạo được cho những cây tùng, cây bách, cây chuối, cây liễu, cây đa, cây đào, cây mận, cây tre,... chỉ chừng độ vài gang tay, cũng có hoa quả, cành lá mầu sắc ấy, hình thù ấy nhưng nhỏ đi tương đối với thân cây? Nghệ nhân phải lấy những hột giống choắt choeo của những cây cằn cỗi để gieo, rồi cắt những rễ cái chỉ để cho rễ con hút nhựa sống, và hãm cây vào chỗ chật hẹp, cũng như giảm phân bón cho cây. Rồi còn phải làm sao cho thân cây thắt lại, khẳng khiu, phải làm sao cho thân cây bật ra những cái bướu kỳ dị bằng cách tỉa gọt, kẹp phía này cho phía kia nẩy trồi ra. Nhưng công việc không phải chỉ có thế, còn phải bỏ công đi tìm những hòn đá đã bị gió nước xoi mòn thành những hình thể không đều và có sinh khí ở các bờ bể, núi hoặc sông. Không phải đá nào cũng dùng được. Nó phải là thứ đá có lỗ nhỏ li ti như lỗ chân lông để hút được nước ở dưới bể cạn lên cho đá lúc nào cũng ẩm ướt, có chỗ cho rễ cây đâm vào hút nước, và rêu phong tự nhiên. Đá lại phải có hình thù đặc biệt khác lạ hoặc của một con vật nào đó. Hình thù tự nhiên thì tốt; nếu không thì phải đẽo gọt thêm chú ít, rồi trồng thêm cây vào cho thành thế núi. Thường người ta đã phải mầy mò tìm kiếm ở các hang động để lấy các nhũ đá, nhìn ngắm, tưởng tượng, mới quyết định cưa cắt theo chiều thẳng này hay chiều nghiêng kia.
Trước thiên nhiên con người cảm thấy bé nhỏ. Núi non, hang động đó làm cho con người say mê, lưu luyến. Nghệ nhân khi bừng tỉnh, lại muốn dời non lấp bể, vượt lên tất cả mọi trở lực mang cả núi, cả biển, nhập cả hồn mình tạo ra hòn non bộ đem về nhà mình, sao cho thơ mộng, hùng vĩ và linh thiêng như cảnh vật ngoài thiên nhiên... Công trình của nghệ nhân giống như một ông Tạo Hóa con, đem tất cả tâm trí vào việc tạo một vưu vật mà gần như đã truyền cả hồn của mình vào đó vậy.
Người thưởng ngoạn non bộ phải có óc trừu tượng phong phú, có kiến thức thẩm định nghệ thuật thì mới hiểu hết ngụ ý thâm hậu của non bộ, cảm nhận được hơi thở của núi sông, cỏ hoa, muông thú. Thưởng ngọn non bộ chỉ đạt hiệu quả cao khi người thưởng ngoạn đang nghỉ ngơi, tâm trạng thư thái, thanh thản, đôi khi pha chút suy tư để thả hồn vào dòng nước, cùng đi trên con đường đất uốn lượn, cùng câu cá, cùng đánh cờ, đọc sách, thưởng rượu với cảnh, người trên non bộ. Tâm hồn người thưởng ngoạn phải đồng điệu với hồn của cảnh vật trong non bộ thì mới cảm nhận hết cái tinh túy của tự nhiên được chọn lọc đưa vào non bộ. Nhìn vào non bộ thấy như một vùng xa xăm, cô tịch của dáng rừng với những cành cây già mọc rải rác trên đá và trãi dài trên những lối đi. Nhìn rừng cây, người ta liên tưởng đến một tiên ông trên núi đi lạc về đồng bằng. Mỗi gốc cây là một dáng xưa cổ tùng hoang dã. Mỗi phiến đá như còn mang dấu vết rêu phong sương tuyết của rừng sâu. Nhìn những cây tùng thân bằng cổ tay, lá bằng mũi kim, vào giữa mùa nắng nóng cảm thấy mát cả người, như bước chân vào rừng tùng vậy, hoặc khi đứng trước những bụi cỏ tranh giữa mùa đông lạnh lẽo với những nụ đào nụ mai trên sườn non có thể nói quên đi không gian và thời gian hiện tại.
Người ta cảm thấy lý thú lạ lùng khi đứng trước những hòn non bộ hình dáng đa dạng . Đó là cái thú thoát tục, cái thú quên những phiền muộn của cuộc sống hiện tại, quên những ràng buộc vật chất và tinh thần để thả hồn phiêu diêu vào những khe vách đá, những dòng suối mát, những hang động, những bóng râm, những cây cầu xinh xắn bắt ngang, Tóm lại, đây là cái thú của những người đã lăn lóc với cuộc sống, và bây giờ đến lúc mượn non bộ làm phương tiện để xuất thần ... Ôi cái thú ấy đã làm say mê biết bao nhiêu người. Say đến nỗi không cần biết đến ngày giờ trôi qua. Say đến nỗi đôi bạn tri kỷ cứ uống rượu ngắm cảnh có khi không nói với nhau lấy một tiếng, chừng như quên cả người ngồi trước mặt mình. Cũng những núi đá ấy, nghệ nhân có thể lợi dụng được cả những hang hốc của nó để đặt đỉnh hương trầm vào trong, cho khói thơm bay ra ngào ngạt ở các khe các lỗ, như những làn khói lam chiều trên các mái tranh sơn thôn. Người ta quả đã yêu thiên nhiên lắm, và quả đã muốn nhập một cái thiên nhiên thì mới tìm ra được cách chơi tế nhị và đầy thiền vị ấy.

        Alan Watts, một học giả về triết học Đông Phương nhận xét :"Nghệ thuật Thiền tông là nghệ thuật của phi nghệ thuật, nghệ thuật của sự điều khiển các bất thường." Nghệ nhân thiết kế non bộ theo lối thiền không bao giờ sửa đổi các hình thể tự nhiên mà chỉ cẩn trọng theo dõi cái "ý hướng bất dụng ý" của nó. Nghệ nhân vẫn đẽo gọt, cắt xén, và săn sóc cây cỏ, song họ làm việc nầy với tinh thần nhập điệu chứ không phải là một sự sắp đặt ở bên ngoài. Không phải là họ giao cảm với thiên nhiên mà chính họ là thiên nhiên và họ trồng tỉa như là không trồng tỉa gì cả. Nhân tạo và Thiên tạo đã phối hợp làm Một.

        Lê Tấn Tài