Phim truyện Nhật Bản : Rashomon (1950)
Đạo diễn: Akira Kurosawa
Dịch : Phạm Vũ Thịnh
Câu chuyện mở màn là cảnh một vị hòa thượng, một ông tiều phu và một người ăn xin đang trú mưa trước cổng ngôi miếu Lã Sanh Môn. Trong lúc ngồi chờ mưa tạnh, ba người bàn luận về vụ án mạng đang gây xôn xao dư luận trong vùng.
Những người dính líu đến vụ án này là: vợ chồng anh võ sĩ, tên cướp Tajomaru và ông tiều phu.
Ông tiều phu tình cờ lên núi đốn củi đã chứng kiến toàn bộ sự việc, nên ông được mời đến công đường làm nhân chứng, xem ai đã giết anh võ sĩ. Sau đó công đường còn lấy lời khai của nhiều người khác kể cả hồn anh võ sĩ nhập vào xác bà đồng .
Lời khai của người đốn
củi với quan kiểm-sát
Đúng đó, thưa quan lớn. Thấy
được xác chết đó chính là tui đây
chớ ai. Sáng nay tui lên rừng sâu
đốn củi như mọi ngày, thì thấy
có xác chết trong bụi cây khuất
sau núi đó. Quan hỏi ở đâu hả?
Thì cách chừng 4, 5 thôi đường
từ con đường lớn qua trạm thơ ở
Yamashina đó mà. Chỗ đó vắng
người, có nhiều cây tuyết-tùng
nhỏ lẫn trong bụi tre.
Xác chết nằm ngửa, mặc áo
bào màu xanh lơ, đầu vẫn còn
đội mũ xếp kiểu nhà quan trên
kinh đô. Nói là chỉ bị đâm một
dao thôi, chớ thiệt ra, vết thương
nhằm ngay ngực, cho nên lá tre
rụng chung quanh xác chết thấm
đầy máu thâm tím. Không, máu
đã hết chảy rồi, mà vết thương
ngó bộ cũng đã khô rồi, thưa
quan lớn. Lại có một con ruồi
trâu bám riết trên vết thương,
như thể không nghe cả tiếng
chân tui bước tới nữa.
Quan hỏi có thấy đao kiếm chi
không hả? Không, tui chẳng thấy
có đao kiếm chi hết. Chỉ thấy
có một đoạn dây rớt ở gốc cây
tuyết-tùng gần đó. À, ngoài đoạn
dây, còn có cái lược nữa. Chung
quanh xác chết chỉ có hai vật đó
thôi, thưa quan lớn. Nhưng mà,
một vùng cỏ và lá tre rụng quanh
đó thì bị giẫm đạp tan hoang,
nên chắc chắn là anh ta trước khi
bị giết chết, cũng đã chống chọi
dữ lắm. Còn ngựa hả? Chỗ đó thì
ngựa không vô lọt được. Lối cho
ngựa chạy thì phải cách đó một
cánh rừng mới có.
Lời khai của nhà sư lữ-
hành với quan kiểm-sát
Người chết đó thì quả thật tôi
đã gặp hôm qua. À, có lẽ vào
khoảng trưa, thưa quan lớn. Chỗ
gặp là khoảng đường tôi đang đi
từ Sekiyama tới Yamashina đó.
Anh ta đi bộ, cùng với người đàn
bà cỡi ngựa, hướng về phía Sekiyama.
Người đàn bà đội mũ có
phủ khăn che mặt nên tôi không
biết mặt mũi ra sao, chỉ thấy cái
áo màu tím. Con ngựa màu hung
đỏ … À, hình như đã cắt sạch
bờm. Quan hỏi ngựa bao lớn à?
Con ngựa nầy có lẽ cao hơn ngựa
thường đến 4 tấc .
Người tu hành nên tôi không
rành chuyện đó, thưa quan lớn.
Anh ta mang gươm, và có cả
cung tên nữa. Đặc biệt, bao đựng
tên sơn đen, cắm hơn hai chục
mũi tên đánh trận, thì tới bây giờ
tôi cũng còn nhớ rõ.
Tôi đâu có ngờ anh ta rồi ra
thân thể như vậy. Quả thật là đời
người như sương như điện chớp.
Chao ôi, thảm thương đến thế
nầy thì còn lời nào mà nói nữa.
Lời khai của sai-nha với
quan kiểm-sát
Quan hỏi cái thằng mà tôi
bắt được là ai ạ? Thưa quan lớn,
thằng nầy chính thật là tướng
cướp khét tiếng Tajomaru đó.
Quả thật là tôi đã tóm được lúc
hắn đã ngã ngựa, đang rên hừ hừ
trên cầu đá ở Awadaguchi. Quan
hỏi vào giờ nào ạ? Khoảng canh
đầu đêm hôm qua đó, thưa quan
lớn.
Lần tôi bắt hụt hắn trước đây,
hắn cũng mặc áo bào màu xanh
đậm, mang gươm dài như vậy.
Lần nầy, như quan lớn thấy đó,
lại mang thêm cung tên nữa.
Dạ, quan dạy là người chết đã
mang cung tên đó? Vậy thì giết
chết người đàn ông đó chính là
tên Tajomaru nầy rồi, chẳng sai
chạy vào đâu được nữa. Cây
cung bọc da, bao đựng tên sơn
đen, tên đánh trận đuôi lông ó
17 cây, tất cả các thứ nầy hẳn là
của người bị hắn giết rồi. Ngựa
thì đúng như quan phán, là ngựa
màu hung đỏ, cắt hết bờm.
Tên cướp nầy mà bị con vật đó
hất ngã xuống thì hẳn là tiền duyên
nghiệp báo chi đây. Con ngựa lúc
đó vẫn còn kéo theo dây cương
dài, đứng gặm cỏ bên đường, một
đoạn phía trước cầu đá.
Trong đám mấy tên cướp hay
lai vãng chốn kinh kỳ, thằng
Tajomaru nầy nổi tiếng là háo
sắc. Năm ngoái đây, trên núi phía
sau chùa Toribedera thờ La Hán
Binzuru, có một bà đi lễ chùa đã
bị giết chết cùng với đứa con gái
nhỏ, nghe đâu là thủ đoạn của
thằng nầy.
Nếu đúng thật là tên nầy đã
giết người đàn ông đó, thì người
đàn bà cỡi con ngựa hung đỏ đã
đi đâu, ra sao rồi, thật không còn
biết nói sao nữa. Sợ quan mắng
cho là dám nói leo, nhưng xin
quan lớn xét cả việc ấy cho.
Lời khai của bà già với quan
kiểm-sát
Dạ phải, người chết đó là
người đã cưới con gái của già
nầy. Nhưng cậu ta không phải là
người chốn kinh kỳ, mà là vũ sĩ
nhà Kokufu ở xứ Wakasa. Tên
cậu ta là Takehiro giòng Kanazawa,
26 tuổi. Dạ không, cậu ta
tính tình hiền lành, đâu có gây
thù oán chi với ai.
Còn con gái tôi à? Con gái
của già tên là Masago, 19 tuổi.
Tuy tính tình có cứng cỏi không
thua đàn ông con trai, nhưng mà
ngoài cậu Takehiro ra, nó chưa
hề biết tới đàn ông nào khác.
Khuôn mặt nhỏ trái xoan, nước
da bánh mật, đuôi mắt bên trái
có một nốt ruồi đen.
Hôm qua, cậu Takehiro đã
cùng con gái tôi lên đường đi
Wakasa. Nhân quả chi mà ác đức
đến ra nông nỗi nầy. Rể tôi phần
số như vậy đã đành, nhưng con
gái tôi ra sao thì già nầy lo lắng
không sao ở yên được. Lạy quan
lớn xét cho lời van xin cuối đời
của người già cả nầy, mà cho dù
phải vạch từng lá cỏ, kiểm từng
gốc cây, cũng xin tìm cho ra con
gái của già.
Dù gì đi nữa, già cũng căm
hận tên cướp mà quan nói là
Tajomaru gì đó. Đã giết chết con
rể tôi, mà cả con gái của tôi cũng
… (sau đó khóc ròng, không nói
gì được nữa)
Lời thú của Tajomaru
Giết chết người đàn ông
đó chính là tui đây. Nhưng tui
không giết người đàn bà. Vậy thì
cô ta đi đâu? Cái đó thì tui cũng
không biết. Mà khoan đã, có tra
tấn bao nhiêu đi nữa, chuyện tui
không biết thì làm sao mà nói gì
được chớ. Hơn nữa, đã tới nước
nầy thì tui cũng quyết không dấu
giếm hèn nhát đâu.
Hôm qua, khoảng sau trưa
một chút, tui đã gặp hai vợ chồng
đó. Đúng lúc gió thổi lật cái khăn
che mặt trước mũ của cô đó lên,
tui thoáng thấy được khuôn mặt
cô ta. Mà chỉ một thoáng thôi.
Tui vừa tưởng là thấy được mặt
cô ta, thì đã không còn thấy nữa.
Một phần có lẽ cũng vì chỉ thấy
lướt qua nên tui thấy khuôn mặt
cô đó giống như khuôn mặt nữ-
bồ-tát. Chỉ trong chớp nhoáng
đó, tui đã quyết sẽ chiếm đoạt cô
ta, dù có phải giết người chồng
đi nữa.
Ôi, có gì đâu. Giết người có
phải là chuyện gì ghê gớm như
các người nghĩ đâu. Thế nào
cũng phải chiếm đoạt đàn bà,
thì phải giết đàn ông đi thôi. Chỉ
khác là tui giết người thì dùng
đao kiếm, còn các người thì thay
vì đao kiếm, lại dùng quyền lực,
tiền bạc, hay có khi chỉ cần lời
nói xảo quyệt là đủ để giết người
ta rồi. Giết kiểu đó thì máu chẳng
đổ, mà đàn ông đó vẫn thấy như
còn sống đàng hoàng. Nhưng
chung quy cũng là giết người đó
thôi. Giết người kiểu nào đáng
kết tội nặng, các người đáng tội
nặng, hay tui đáng tội nặng, thật
khó mà phán quyết được (mỉm
cười mai mỉa).
Nhưng mà, tất nhiên nếu
không cần giết đàn ông mà vẫn
chiếm đoạt được đàn bà thì tốt
hơn. Quả thật, lúc đó lòng tui
đã nghĩ là nếu được thì chiếm
đoạt người đàn bà mà tránh giết
người đàn ông. Nhưng khổ là
ngay trên đường lớn qua trạm
thơ ở Yamashina thì không cách
nào làm được việc đó. Cho nên
tui đã phải dàn xếp để dụ hai vợ
chồng đó vô sâu trong núi.
Chuyện nầy cũng chẳng khó
khăn chi. Tui giả bộ đi cùng
đường với họ, rồi đặt chuyện
rằng trong núi phía trước có
phần mộ cổ, tui đào lên thấy có
vô số gương và kiếm, nên đã dời
đi, chôn ở một bụi rậm khuất sau
núi để không ai tìm thấy được,
nếu có ai muốn mua thì tui sẽ
để lại với giá rẻ. Người đàn ông
nghe tui nói, dần dần cũng động
lòng ham. Thấy chưa, lòng ham
muốn là thứ đáng sợ như thế nào.
Vậy là, không đầy nửa khắc sau,
vợ chồng họ đã theo tui, rẽ ngựa
vào rừng.
Tới chỗ ngay trước bụi rậm,
tui nói là kho tàng chôn ở trong
đó, gọi họ tới xem. Anh chồng
trong lòng đã ham muốn quá rồi,
chẳng có gì phải phản đối. Nhưng
cô vợ thì không chịu xuống
ngựa, nói là muốn ngồi đợi ở đó.
Mà nhìn thấy bụi rậm cây cối um
tùm kiểu đó thì cô ta nói như vậy
cũng là chuyện đúng thôi. Tui thì
thật tình lúc đó đã chắc mẫm là
thú săn lọt bẫy rồi, chạy đâu cho
thoát, nên cứ để mặc cô ta ở đó,
chỉ đưa anh chồng vô sâu trong
bụi rậm.
Lúc đầu thì chỉ toàn là bụi tre
dày. Nhưng đi chừng nửa thôi
đường thì tới chỗ thấy phía
trước có đám cây tuyết-tùng, có
phần thưa hơn. Không còn chỗ
nào tốt hơn chỗ đó, cho tui ra tay.
Tui vừa rẽ bụi rậm bước tới, vừa
kiếm lời lọt tai mà nói gạt rằng
kho tàng chôn ở dưới đám cây
tuyết-tùng đó. Anh chồng nghe
tui nói, hăm hở rẽ bụi rậm tiến
về phía đám cây đó. Một hồi thì
tới chỗ chỉ có ít tre, có vài cây
tuyết-tùng mọc thành hàng.
Vừa tới chỗ đó, tui thình lình
nhào tới vật anh ta xuống. Là một
tay dùng đao kiếm, anh ta quả là
có sức mạnh lắm chớ, nhưng bị
đánh thình lình nên không làm gì
được, tức thì bị trói chặt vô một
gốc cây tuyết-tùng. Quan hỏi dây
trói à? Dây đó là thứ đồ tiện lợi
cho kẻ cướp, phòng khi cần có
để vượt qua rào tường, nên lúc
nào tui cũng cột sẵn ở thắt lưng.
Tất nhiên là để anh ta khỏi la lên,
chỉ cần tọng đám lá tre khô vô
miệng là khỏi phải lo lắng chi
nữa.
Lo xong phần anh chồng, tui
quay trở lại chỗ cô vợ, nói là anh
ta có vẻ phát bệnh thình lình,
biểu vợ tới coi sóc cho.
Chắc khỏi cần nói là chuyện
nầy cũng song suốt như ý tui.
Cô ta vất mũ, mặc cho tui nắm
tay, tất tả bước sâu vô bụi rậm.
Nhưng, tới nơi lại thấy chồng
mình bị trói vô gốc cây tuyếttùng.
Vừa thấy vậy, không biết
đã lấy từ trong túi ra từ lúc nào
mà cô ta đã tức thì rút lưỡi dao
ngắn ra, sáng loáng trên tay. Cho
tới bây giờ, tui chưa hề thấy một
người đàn bà nào cường ngạnh
như cô nầy.
Lúc đó, tui mà dễ ngươi một
chút là đã bị đâm một nhát lủng
hông rồi. Tui tràng người né
tránh được, nhưng cô ta cứ đâm
chém túi bụi nên tui mà có bị
thương tích cũng chẳng có chi lạ.
Nhưng mà, tui đây, đường đường
là Tajomaru, cho nên không đến
nỗi phải dùng tới đao kiếm, cuối
cùng rồi cũng đánh rớt được con
dao. Tính khí cương cường đến
đâu đi nữa mà trong tay không
có vũ khí thì cũng phải chịu phép
thôi. Vậy là đúng như ý định,
cuối cùng tui đã chiếm đoạt được
người đàn bà mà không cần phải
giết người đàn ông.
Khỏi phải giết người đàn ông.
Đúng đó. Tui đâu có ý định giết
anh ta làm chi nữa. Nhưng, lúc
tui định rời thoát khỏi bụi rậm
đó, bỏ lại cô ta đang nằm khóc
lóc, thì thình lình, cô ta nắm cánh
tay tui, rồi như điên cuồng, cứ
ôm chặt lấy tui. Mà nghe những
lời thổn thức đứt quãng đó thì ra
là cô ta nói : hoặc là chồng côta
phải chết, hoặc là tui phải chết,
một trong hai người phải chết đi,
chớ cô ta đã làm chuyện nhục
nhã đó trước mắt cả hai người
đàn ông, thì đau khổ còn hơn
chết nữa.
Ai cũng được, người nào
sống sót thì cô ta sẽ đi theo mà
cung phụng người đó. Cô ta năn
nỉ thảm thiết vậy đó. Riết rồi tui
cũng phát khởi ý muốn giết chết
anh chồng đi. (có vẻ xúc động
buồn rầu).
Chuyện nầy nói ra như vậy,
chắc là người ta thấy tui tàn
nhẫn hơn các người. Nhưng
các người đâu có nhìn thấy vẻ
mặt cô ta. Nhất là trong thoáng
chớp đó, đôi mắt cô ta bốc lửa
như thế nào. Lúc đó, nhìn đôi
mắt cô ta, tui đã nghĩ là cho dù
có bị sấm sét đánh chết đi nữa,
cũng phải lấy cô ta làm vợ mới
thoả lòng. Phải, lấy cô ta làm
vợ, trong lòng tui lúc đó chỉ có
một ý nguyện đó mà thôi. Điều
đó không phải như các người
nghĩ là chuyện sắc dục bỉ ổi
đâu. Lúc đó, nếu thật chỉ chuyên
niệm chuyện sắc dục mà thôi,
thì dù có phải đạp ngã cô ta, tui
cũng đã bỏ đi rồi. Mà như vậy
thì người chồng cũng khỏi phải
đổ máu dưới lưỡi gươm của tui.
Nhưng mà, trong bụi rậm mờ
tối, trong thoáng chớp khi tui
nhìn đăm đăm khuôn mặt cô
ta, tui hiểu rằng nếu không giết
chết anh chồng thì không thể
rời chỗ đó mà đi được.
Nhưng có giết anh ta đi nữa,
tui cũng không muốn giết bằng
thủ đoạn đê hèn. Tui cởi trói
cho anh ta, rồi biểu anh ta tuốt
gươm ra. (Dây trói cởi bỏ lúc đó,
sau nầy còn sót lại bên gốc cây
tuyết-tùng). Sắc mặt giận dữ, anh
ta mới tuốt cây gươm to bản ra,
không nói một lời, tức thì hầm
hầm bay tới chém tui.
Trận đấu gươm đó cuối cùng
ra sao thì khỏi nói các người
cũng đã rõ. Tới thế thứ 23 thì
lưỡi gươm của tui đã xuyên thấu
ngực kẻ địch. Thế thứ 23 đó, xin
các người nhớ cho. Điều nầy,
cho tới bây giờ tui vẫn còn nể
phục. Đấu gươm với tui mà đỡ
được hơn 20 thế thì khắp thiên
hạ chỉ có một mình anh ta mà
thôi. (mỉm cười khoái trá).
Anh ta vừa ngã xuống, thì tui
hạ mũi gươm nhuộm máu, quay
lại nhìn cô vợ. Thì, các người
nghĩ coi, cô ta chẳng còn ở đó
nữa. Tui cố tìm kiếm trong mấy
đám cây tuyết-tùng coi cô ta trốn
đi đâu. Nhưng trên đám lá tre
khô chẳng còn gì là dấu vết của
cô ta cả. Có lắng tai nghe cũng
chỉ nghe tiếng hấp hối trong cổ
họng người chồng mà thôi.
Theo chuyện mà đoán thì
ngay khi tui chém nhát gươm
đầu, có lẽ cô ta đã luồn qua bụi
rậm, trốn đi để kêu người tới
cứu rồi. Nghĩ vậy nên đến phiên
tính mạng mình bị nguy, tui bèn
đoạt lấy gươm dài và cung tên,
lập tức chạy trốn về phía đường
rừng đã vô lúc trước. Ở đó vẫn
còn con ngựa của cô ta đang yên
lặng gặm cỏ.
Chuyện từ đó về sau thì chẳng
cần phải nói ra làm chi nữa. Có
điều, trước khi vô kinh đô, chỉ
có thanh gươm thì tui đã vất đi
rồi. Lời cung khai của tui chỉ có
chừng đó. Đàng nào thì cũng một
lần, côn trượng hay bêu đầu treo
cổ, thôi thì xin chịu nhục hình
cho rồi. (tỏ thái độ ngạo)
Lời sám hối của người đàn
bà đến chùa Shimizu
Tên đàn ông mặc áo bào màu
xanh đậm đó, sau khi đã dày vò
tôi xong, hắn nhìn chồng tôi mà
cười chế diễu. Chồng tôi khổ
tâm biết là dường nào. Nhưng
dù cho chồng tôi có vặn vẹo bao
nhiêu đi nữa, cũng chỉ làm cho
các vòng dây trói khắp trên thân
người càng siết chặt vào thêm
mà thôi. Tội nghiệp quá, bất giác
tôi lăn về phía chồng tôi.
Không, tôi mới định lăn lại thì
ngay lúc đó tên cướp đã đạp tôi
ngã chúi tới chỗ chồng tôi. Rồi
trong thoáng chốc nhìn thấy tia
sáng không sao diễn tả được loé
lên trong mắt chồng tôi, tôi hiểu
ra được điều gì chứa đựng trong
ánh mắt ấy. Ánh mắt không lời
nào diễn tả được. Cho đến bây
giờ, nhớ lại ánh mắt ấy, tôi còn
không khỏi rùng mình.
Dù miệng không nói ra được
lời nào, nhưng trong khoảnh
khắc ấy, chồng tôi đã truyền
đạt được tất cả tâm tình anh ấy.
Nhưng chiếu toả ra từ ánh mắt
ấy không phải là cơn giận dữ,
mà cũng không phải là nỗi buồn
rầu. Mà chỉ là tia sáng lạnh lẽo
của lòng khinh miệt đối với tôi.
Hơn cả nỗi đau đã bị tên cướp
kia đạp đá, tôi đã bị ánh mắt ấy
tống mạnh vào tâm thần, bất giác
thét lên lời gì không rõ, rồi ngã
xuống bất tỉnh.
Đến lúc tỉnh lại được thì tên
đàn ông mặc áo bào màu xanh
đậm đó đã đi đâu mất. Chỉ còn lại
chồng tôi bị trói ở gốc cây tuyếttùng.
Tôi gượng ngồi dậy được
trên đám lá tre khô, nhìn chăm
chú vẻ mặt của chồng tôi. Nhưng
ánh mắt của chồng tôi vẫn không
thay đổi chút nào. Cũng vẫn biểu
lộ một màu thù ghét từ dưới đáy
lạnh băng của lòng khinh miệt.
Hổ thẹn, đau buồn, tức giận, …
tôi không còn biết lòng tôi lúc ấy
là như thế nào nữa. Tôi lảo đảo
đứng lên, lết lại gần chồng tôi :
- “Thưa anh. Đã đến nông
nỗi nầy thì em không còn có thể
cùng sống với anh được nữa.
Em chỉ muốn chết ngay cho rồi.
Nhưng mà, xin anh cũng chết
đi. Bởi anh đã chứng kiến nỗi ô
nhục của em. Em không thể nào
để mặc anh sống như thế nầy
được”.
Tôi gượng hết sức mình để tỏ
bày điều ấy. Thế mà chồng tôi
vẫn chỉ nhìn tôi trừng trừng kinh
tởm. Tôi gắng dằn lòng mình
đang muốn xé toang ra, vừa tìm
kiếm thanh gươm của chồng tôi.
Nhưng có lẽ tên cướp kia đã đoạt
lấy mất rồi. Thanh gươm đã đành,
mà cung tên nữa, cũng không
còn thấy đâu trong bụi rậm ấy.
Nhưng may thay, lưỡi dao ngắn
thì còn rớt lại dưới chân tôi. Tôi
giương con dao ấy lên, nói với
chồng tôi một lần nữa :
- “Thôi thì xin anh giao mạng
cho em. Rồi em cũng xin chết
theo anh”.
Nghe thế, chồng tôi mới mấp
máy môi. Tất nhiên là vì miệng
ngậm đầy lá tre khô, nên tiếng
nói không sao nghe được. Nhưng
nhìn đôi môi mấp máy, tôi cũng
hiểu ngay lời anh nói. Chồng tôi
cũng vẫn khinh miệt tôi, chỉ nói
một lời : -”Giết ta đi”. Tôi, như
hoàn toàn trong mộng dữ, đã
đâm phập một nhát dao xuyên
thấu ngực chồng tôi, qua lớp áo
bào màu xanh lơ ấy.
Và rồi, có lẽ tôi đã bất tỉnh
một lần nữa. Hồi lâu sau, khi
tỉnh lại nhìn quanh, thì chồng
tôi, vẫn còn bị trói như cũ, đã
tắt thở từ lâu rồi. Ánh nắng
chiều xuyên qua kẽ lá tuyết
tùng lẫn trong đám lá tre, rọi
lên khuôn mặt người chết tái
xanh. Tôi cố nén tiếng khóc,
lần mở dây trói tử thi mà vất đi.
Rồi, còn thân tôi thì ra thế nào?
Tôi chẳng còn sức nào mà nói
nữa. Chỉ biết là, tôi không có
đủ nghị lực để chết đi.
Tôi đã kề dao lên cổ, đã
gieo mình xuống hồ nước bên
triền núi, đã thử chết nhiều
cách, nhưng cuối cùng cũng
không chết được, mà còn sống
sót như thế nầy, thì có gì để tự
hào đâu. (mỉm cười buồn bã).
Một kẻ hèn nhát như tôi, có
lẽ đến Đức Quan Thế Âm Bồ
Tát cũng chẳng muốn đoái hoài
cho nữa. Nhưng là kẻ đành phải
giết chồng, là kẻ đã bị tên cướp
kia dày vò nhục nhã, tôi biết
làm thế nào được chứ? Trời ơi,
tôi phải làm thế nào bây giờ?
(thình lình nức nở thảm thiết).
Lời kể lể của người chết qua
miệng người ngồi đồng
Tên cướp dày vò vợ ta xong
còn ngồi đó mà an ủi vợ ta đủ
điều. Tất nhiên, ta không thể
thốt ra được lời nào. Thân thể
lại bị trói vào gốc cây tuyếttùng.
Nhưng ta đã đưa mắt ra
hiệu cho vợ nhiều lần. Đừng tin
những gì tên cướp nói, cứ nghĩ
tất cả những điều hắn nói đều là
láo khoét cả. Ta muốn truyền đạt
như thế.
Thế nhưng, vợ ta cứ ngồi
trên đám lá tre khô, buồn rầu
nhìn xuống đầu gối. Ta thấy
có vẻ cô ấy đang lắng tai nghe
tên cướp nói. Ta rúng động cả
người vì ghen. Nhưng tên cướp
đã khéo léo kiếm lời nói nầy
nói nọ. Những là, đã thất tiết
với người khác một lần rồi thì
không thể nào còn sống chung
êm đẹp với chồng nữa. Đi theo
người chồng như thế, chi bằng
theo làm vợ hắn còn hơn. Chính
vì hắn đem lòng yêu thương
cô, nên mới làm chuyện táo
tợn như thế. Tên cướp ấy thật
là lớn mật, dám đặt điều đến cả
chuyện như thế.
Vậy mà nghe tên cướp nói,
vợ ta lại ngước khuôn mặt đờ
đẫn lên. Ta chưa bao giờ thấy
vợ mình đẹp đến như lúc ấy.
Nhưng, người vợ tuyệt đẹp ấy,
ngay trước mặt chồng là ta đây
đang bị trói chặt, đã nói gì với
tên cướp? Ta, dù lúc nầy đang
thất thểu chờ dịp đầu thai, mà
mỗi lần nhớ đến lời nói của cô ta,
lại không thể không bốc lên lửa
hận. Vợ ta quả thật đã nói như
thế nầy : - “Vậy thì, xin ông cứ
cho tôi theo, bất cứ nơi đâu”. (im
lặng một hồi lâu).
Tội của vợ ta không phải chỉ
có thế. Nếu chỉ có thế thì trong
cõi tối tăm nầy, ta đâu đến nỗi
đau khổ như thế nầy. Vợ ta, như
trong cơn mộng mị, đã để cho tên
cướp nắm tay dắt đi, dợm bước
ra khỏi bụi rậm ấy, đột nhiên,
mặt mày tái nhợt, chỉ tay vào ta
đang bị trói vào gốc cây tuyếttùng
mà nói :
- “Giết chết người đó đi. Người
đó mà còn sống thì tôi không thể
nào đi theo ông được”.
Vợ ta như điên cuồng, đã thét
lên nhiều lần : - “Giết chết người
đó đi”. Lời thét ấy như trận cuồng
phong, cho đến bây giờ vẫn còn
chực cuốn ngược đầu ta xuống
đáy vực sâu tăm tối. Lời nói đốn
mạt đến như thế mà có thể lọt ra
từ miệng con người được sao, dù
chỉ một lần đi nữa? Lời nói quỷ
ám đến như thế mà có thể chạm
tai con người được sao, dù chỉ
một lần đi nữa? (thình lình phì
cười như chế diễu).
Nghe lời nói ấy, chính tên
cướp kia, mặt mày cũng tái mét.
- “Giết chết người đó đi”.
Vợ ta vừa thét lên vừa nắm
kéo cánh tay tên cướp. Hắn nhìn
vợ ta đăm đăm, chẳng trả lời
được là giết hay không giết. Rồi
đột nhiên, vợ ta ngã xuống đám
lá tre khô; chỉ một đạp, tên cướp
đã đạp ngã cô ta xuống đấy. (lại
phì cười như chế diễu một lần
nữa). Tên cướp khoan-thai khoanh
tay, nhìn về phiá ta mà nói :
- “Ngươi định làm gì con đàn
bà nầy? Chỉ cần gật đầu trả lời.
Nào, giết nhé?”
Chỉ cần một câu nói nầy thôi,
ta đã muốn tha tội cho tên cướp
ấy rồi. (lại im lặng hồi lâu).
Vợ ta, trong lúc ta đang do
dự, đã thét lên một tiếng rồi lập
tức vùng chạy vào sâu trong bụi
rậm. Tên cướp cũng nhanh nhẹn
phóng tới chụp lại, nhưng không
kịp nắm được dù là một chéo áo.
Ta chỉ nhìn khung cảnh ấy như
trong cơn mơ.
Sau khi vợ ta đã chạy trốn
mất, tên cướp thu nhặt thanh
gươm và cung tên, xong cắt một
chỗ dây trói trên mình ta. - “Đến
phiên tao phải lo lấy thân đây”.
Ta nhớ tên cướp đã lẩm bẩm
như thế trước khi chạy ra khỏi
bụi rậm, mất dạng. Sau đó, bốn
bề chung quanh đều im vắng. À
không, còn có tiếng ai khóc. Ta
vừa tự cởi trói, vừa lắng tai nghe
ngóng. Nhưng mà, tiếng khóc
đó, nghĩ lại, chẳng qua là tiếng
khóc của chính mình đó thôi. (lại
im lặng hồi lâu, lần thứ ba).
Cuối cùng, ta đã nhấc thân
mình mệt đến kiệt sức lên từ
gốc cây tuyết-tùng. Trước mặt
ta là con dao ngắn vợ ta đã làm
rớt lại, loé sáng. Ta nhặt con
dao đó lên, đâm một nhát vào
ngực mình. Có gì như một khối
tanh tưởi cuộn dâng lên trong
miệng. Nhưng, chẳng nghe đau
đớn gì. Chỉ khi ngực ta lạnh
băng đi rồi thì chung quanh
như càng lặng im thêm một bậc
nữa.
Ôi, sao mà tĩnh mịch đến như
thế. Khoảng trời trong bụi rậm
khuất sau núi nầy, đến một cánh
chim nhỏ cũng không thấy. Chỉ
thấy ánh nắng chiều phiêu lãng
buồn rầu trên những thân tre và
tuyết tùng. Mà ánh nắng chiều
cũng dần dần nhợt nhạt đi, rồi
tuyết tùng và tre cũng không
còn thấy nữa. Rồi ta ngã xuống
đó, bao phủ trong tĩnh mịch sâu
thẳm.
Lúc ấy, có tiếng chân ai rón
rén đến bên ta. Ta cố nhìn về phía
ấy. Nhưng chung quanh ta, bóng
tối mịt mùng bao phủ. Ai đó …
bàn tay không thấy được của ai
đó đã nhè nhẹ rút lưỡi dao ra
khỏi ngực ta. Cùng lúc ấy, trong
miệng ta, dòng máu lại trào lên,
dâng đầy tràn một lần nữa. Từ
đó, ta vĩnh viễn chìm mất vào
tăm tối hư vô.
Người duy nhất biết rõ chân tướng vụ án này là ông tiều phu, nhưng vì ông đã ăn cắp thanh kiếm quý giá của anh võ sĩ nên không dám nói ra sự thật, vì sợ chuốc họa vào thân. Theo đó sau vụ cưỡng bức người phụ nữ bị cả tên cướp và anh võ sĩ ghét bỏ, vì quá tức giận cô quay lại chửi mắng cả hai người và cho rằng cả hai đều không đáng mặt làm đàn ông. Vụ án kết thúc bằng cuộc đấu kiếm giữa người võ sĩ với Tajomaru và anh võ sĩ bị tên cướp giết.
Câu chuyện kể đến đây thì ba người nghe thấy tiếng khóc của trẻ sơ sinh, họ liền chia nhau đi tìm. Gã ăn xin là người đầu tiên tìm thấy đứa trẻ, gã cướp lấy chiếc áo kimono . Hành động của gã ăn xin khiến cho vị hòa thượng cảm thấy con người thật đê hèn, ngay cả một đứa trẻ sơ sinh yếu ớt mà người ta cũng nhẫn tâm làm hại nó. Thấy vậy, ông tiều phu định bồng đứa bé lên thì bị vị hòa thượng mắng cho một trận, vì hiểu lầm ông muốn lấy luôn chiếc áo đứa bé đang mặc. Lúc này, ông tiều phu mới phân trần: “Tôi đã có 6 đứa con, nên không ngại nuôi thêm một đứa nữa, hãy để tôi mang đứa bé này về nhà nuôi”. Trước lời giải thích đó, nhà sư xin lỗi người tiều phu và nói rằng hành động của người tiều phu đã giúp ông giữ được lòng tin về nhân tính.