Tôi chăn cừu trên vùng núi thuộc rặng Alpes. Cả tuần không thấy bóng người, mình tôi thui thủi trên cánh đồng cỏ với con chó và đàn cừu. Thoảng có vị tu sĩ sống ẩn dật hoặc người phu mỏ mặt lọ lem dính đầy bụi than đi ngang qua. Tôi không trò chuyện với họ vì họ quen sống trong cảnh cô đơn không thích chuyện trò.
Vì thế, cứ khoảng nửa tháng, mỗi khi nghe tiếng lục lạc của con la từ đường mòn dưới núi vọng lên, và liền sau đó xuất hiện bộ mặt vui tươi của thằng nhỏ giúp việc của trại mang lương thực cho tôi. Tôi vui quá đỗi. Tôi hỏi nó những chuyện xảy ra ở dưới đồng bằng, những buổi lễ rửa tội, những đám cưới hỏi... Nhưng điều mà tôi thích nghe hơn cả là biết tin tức về cô con gái cưng của ông bà chủ trại, thiếu nữ xinh đẹp nhất trong vùng, có hay đi dự dạ tiệc và có nhiều chàng trai ngấp nghé tán tỉnh không.
Thế rồi, một sáng chúa nhật nọ, tôi chờ chuyến tiếp tế lương thực như thường lệ, nhưng thằng nhỏ vẫn chưa thấy đến. Rồi đến trưa, một trận mưa giông đổ xuống, tôi nghĩ rằng con la chưa thể lên núi được do đường trơn trượt và ướt lầy lội. Đến khi chiều buông, trời quang mây tạnh, ánh sáng mặt trời chiếu xuống lưng núi, tôi nghe rõ tiếng nước nhỏ giọt róc rách trên cành lá và tiếng suối reo vì nước lũ dâng trào. Bỗng tiếng lục lạc leng keng của con la truyền đến tai tôi, rộn ràng như tiếng chuông nhà thờ đổ hồi trong ngày lễ Phục Sinh. Nhưng không phải thằng nhỏ ở nông trại, mà là vị tiểu thư trại nhà, ngồi ngay ngắn trên lưng con la giữa những chiếc giỏ mây, đôi má nàng ửng hồng vì không khí lạnh của núi và làn gió mát sau trận mưa giông.
Cô chủ xinh đẹp vừa từ trên mình la tụt xuống vừa báo cho tôi biết thằng nhỏ bị bệnh. Nàng còn nói thêm rằng do lạc đường nên đến muộn. Nhưng nàng trông rất đẹp trong bộ trang phục, với chiếc băng hoa trên đầu và chiếc váy lộng lẫy, hình như nàng đến chậm vì cố ham vui trong một vũ hội nào đó hơn là dò dẫm tìm đường trong rừng rậm. Ôi người sao mà đẹp như vậy! Tôi mê mẩn nhìn nàng. Thực sự, tôi chưa từng có cơ hội ngắm nàng ở gần như vậy. Vào mùa đông, sau khi lùa đàn cừu xuống đồng bằng, tôi trở về trại để ăn tối. Thỉnh thoảng, tôi thấy nàng đi nhanh qua phòng ăn của chúng tôi, nhưng hầu như chẳng bao giờ nàng nói chuyện với những người làm công ở đây. Thế mà giờ đây, nàng đứng trước mặt tôi, cho riêng mình tôi thôi, làm sao tôi không cảm thấy lúng túng?
Sau khi lấy hết lương thực trong những chiếc giỏ mây, nàng tò mò nhìn chung quanh. Nhẹ nhàng, nàng vén chéo váy xinh đẹp lên và bước vào căn lều của tôi, muốn xem nơi tôi ngủ, chiếc ổ đệm rơm phủ da cừu, cái áo choàng treo trên tường, cây thập giá và khẩu súng đá bắn lửa mồi. Tất cả nàng thấy thích thú lắm.
- À, hóa ra anh sống ở đây, tội nghiệp không? Anh làm sao để khỏi buồn chán, một mình như thế này? Anh làm gì? Anh nghĩ gì?
Tôi muốn trả lời: "Tôi nghĩ đến cô đó, cô chủ à!" Quả thật, nói như vậy mới không dối lòng, nhưng lúc này xao xuyến quá, nên chẳng tìm được câu trả lời. Có vẻ nàng cũng nhận ra điều này và thích thú lắm. Tôi càng lúng túng, nàng càng chọc ghẹo:
- Anh ơi, liệu bạn gái anh có đến đây thăm anh không? Ừ, mà chắc nàng là Con Dê Vàng hoặc là nàng tiên chỉ bay nhảy trên các đỉnh núi thôi!
Thực ra, cô chủ tôi mới là tiên nữ, với nụ cười duyên dáng, tươi mát, mái đầu nghiêng nghiêng, nhất là cách nàng muốn vội vã ra về, làm tôi cảm thấy cuộc thăm viếng của nàng giống y như nàng tiên bất chợt hiện ra.
- Chào anh nhé!
- Chào cô.
Thế là nàng biến mất, mang theo những chiếc giỏ mây trống trơn. Khi bóng nàng khuất trên lối mòn lưng núi, tôi tưởng chừng như những hòn cuội lăn từ chân la, đang rơi từng viên một vào trái tim tôi. Tiếng rơi của chúng vang vọng mãi trong tôi, thật lâu, kéo dài đến tận cuối ngày. Tôi trôi trong một giấc mơ, cứ như thế mãi không dám cử động, e rằng chúng sẽ làm tan vỡ giấc mơ của tôi.
Khi hoàng hôn buông xuống, thung lũng ngã màu xanh thẩm, và những đàn cừu xúm xít lại, kêu đàn về chuồng. Bất ngờ, tôi nghe tiềng ai gọi từ phía lưng núi. Và rồi, nàng tiểu thư của tôi xuất hiện, không còn tươi tắn như buổi ban chiều nữa, thân hình ướt đẫm, run lẩy bẩy vì lạnh và sợ. Chẳng qua, trên đường về, cơn bão làm con suối tràn ngập nước. Nhưng nàng cố vượt qua, suýt bị cuốn trôi bởi dòng nước lũ. Thật khổ thân nàng, giờ không cách nào quay trở lại trại nữa. Một mình nàng không thể tìm được con đường tắt băng qua núi, còn tôi thì không thể bỏ đàn cừu.
Ý nghĩ phải ngủ qua đêm ở đây làm nàng băn khoăn, lo lắng. Tôi cố sức an ủi nàng:
- Tháng Bảy, đêm rất ngắn, cô ơi! Một chút khó chịu thôi, rồi đêm sẽ qua.
Tôi vội vàng xếp củi, nhóm một ngọn lửa lớn để hong khô áo cho nàng và sưởi ấm đôi chân ướt lạnh vì lội qua suối. Rồi tôi mang sữa và những miếng phô mai nhỏ, nhưng cô nàng đáng thương không màng ăn uống hoặc sưởi ấm gì cả. Nhìn nước mắt nàng tuôn rơi, tôi cũng muốn khóc theo.
Lúc này, đêm đã buông xuống khắp nơi, chỉ còn một ít ánh sáng lung linh trên đỉnh núi và một làn khói mờ nhạt nơi chân trời. Tôi mời nàng vào túp lều bé nhỏ của tôi để nghỉ ngơi. Tôi thay ổ rơm mới và trải một tấm da cừu mới, chúc nàng ngủ ngon, rồi ra ngoài ngồi canh cửa. Lạy Chúa xin chứng giám giùm con dù ngọn lửa tình yêu nồng cháy trong tâm can, tôi không có một ý nghĩ xấu xa nào, và lấy làm hãnh diện khi nghĩ về trong góc nhỏ kia, giữa bầy cừu đang tò mò nhìn nàng, con gái ông chủ, đang yên giấc như một con cừu non quý báu, trắng ngần, trong khi tôi canh giữ bên ngoài. Chưa từng có đêm nào trời thật sâu và các vì sao sáng rực như đêm nay!
Bỗng nhiên, cánh cửa lều xịch mở và nàng tiên xinh đẹp của tôi hiện ra. Tôi hiểu rằng nàng không thể ngủ được vì đàn cừu liên tục cựa mình làm xao động đống rơm, hoặc những tiếng kêu be be nho nhỏ của chúng. Nàng nói rằng thích ngồi gần ngọn lửa hơn. Tôi vội vàng lấy tấm choàng da cừu của tôi khoác lên vai nàng và chúng tôi ngồi im lặng, bên nhau.
Nếu có lúc nào bạn trải qua một đêm dưới bầu trời vằng vặc đầy sao, bạn mới hiểu rằng vào giờ mọi người đang yên giấc, thì cả một thế giới huyền bí đang bừng dậy trong thinh lặng và cô quạnh. Lúc đó, tiếng suối nghe rõ hơn và thanh thoát hơn, mặt hồ tĩnh lặng nhen lên những đốm lửa nhỏ. Mọi linh hồn của núi tự do bay lượn, vang lên từ khắp nơi những tiếng sột soạt, những âm thanh rất khẻ, như thể tiếng cành cây vươn dài ra, cỏ mọc cao hơn. Ban ngày là sự sống của sinh vật, nhưng ban đêm là đời sống của vạn vật. Nếu chưa quen, người ta có khi sợ hãi... Thế nên, mỗi khi có tiếng động vang lên, cô tiểu thư của tôi run sợ và vội vàng xích người ngồi sát vào tôi. Rồi từ mặt ao lấp lánh dưới kia, vọng lên một tiếng kêu dài, não nuột. Cùng lúc đó, một ngôi sao xẹt ngang qua đầu mang theo một vệt sáng, tựa như tiếng thở dài vừa nghe thấy.
Nàng khẽ hỏi:
- Cái gì thế?
- Thưa cô, một linh hồn vừa lên thiên đàng.
Và tôi làm dấu thánh giá. Nàng cũng làm theo tôi, ngước nhìn lên bầu trời, nét mặt đăm chiêu và hỏi:
- Có thật vậy không, anh? Các anh chăn cừu có phải là phù thủy, những người có lối sống khác với người thường như chúng tôi?
- Không phải vậy, cô ạ. Chúng tôi không phải là phù thủy. Vì chúng tôi sinh sống trên núi cao, gần với các vì sao hơn, nên chúng tôi biết nhiều về các việc nầy so với những người ở dưới đồng bằng.
Nàng vẫn tiếp tục nhìn lên trời, tay chống cằm, khoác tấm chăn da cừu quanh người, trông giống như một thiên thần chăn chiên.
- Ô nhiều sao quá! Thật tuyệt vời! Tôi chưa bao giờ thấy nhiều sao như vậy! Anh ơi, anh có biết tên của chúng không?
Biết chứ, thưa cô. Này, ngay trên đầu chúng ta là dải Ngân Hà, con đường của thánh Jacques. Nó đi thẳng từ Pháp đến Tây Ban Nha. Chính Thánh Jacques de Galice đã lần theo dấu vết đó chỉ đường cho vua Charlemagne tiến đánh quân Sarrasins. Xa hơn nữa, là chùm sao Đại Hùng, cổ xe ngựa chở linh hồn với bốn trục bánh xe sáng rực. Ba ngôi sao hàng đầu là ba con vật kéo xe, và ngôi sao bé nhất là người xà ích điều khiển xe. Cô có thấy chung quanh chúng một loạt ngôi sao rơi rụng xuống không? Đó là những linh hồn mà Thượng Ðế không muốn chúng đến gần Ngài. Xa hơn một chút là sao Ba Vua, ngôi sao được coi như chiếc đồng hồ của những người chăn cừu chúng tôi để biết được giờ giấc. Chỉ cần nhìn chúng, là tôi biết bây giờ đã quá nửa đêm rồi! Thấp hơn một chút, vẫn hướng về phía nam, là ngôi sao Thiên Lang, ngọn đuốc của các vì sao. Giới chăn cừu chúng tôi đã truyền miệng câu chuyện như thế này: Một đêm nọ, anh chàng Thiên Lang, cùng ba vị vua và ngôi sao Rua được mời đến dự đám cưới của một ngôi sao bạn. Sao Rua vội vã đi trước, theo con đường trên cao. Hãy nhìn nó, ở trên đó, sâu thẳm trên bầu trời. Ba Vua đi đưởng tắt ở phía dưới nên đuổi theo kịp, còn anh chàng lười biếng Thiên Lang, vì ngủ dạy trễ, bị bỏ lại khá xa nằm ở sau cùng. Anh chàng tức giận, bèn ném cây gậy lên cản đường. Vì thế sao “Ba Vua” còn được gọi là “Cây Gậy của chàng Thiên Lang”... Nhưng cô ơi, ngôi sao đẹp nhất trong các vì sao, là ngôi sao của chúng tôi, “ Ngôi sao của những người chăn cừu “, thắp sáng bình minh khi chúng tôi lùa đàn cừu ra đồng, và cả trong buổi chiều tối khi chúng tôi dẫn cừu trở về. Chúng tôi gọi ngôi sao đó là nàng Kim Tinh. Nàng Kim Tinh chạy theo chàng Thổ Tinh, và cứ bảy năm lại làm đám cưới với chàng một lần.
- Thôi đi anh ơi, các vì sao cũng tổ chức đám cưới sao?
- Đúng thế đấy, cô à!
Trong khi tôi cố gắng giải thích cho nàng hiểu về đám cưới của các vì sao, tôi cảm thấy một cái gì đó nhẹ nhàng và mát dịu chạm vào vai tôi. Đó là cô chủ, cô mệt mỏi ngả đầu và dựa vào vai tôi, với tiếng sột soạt dễ thương của những chiếc băng hoa trên mái tóc quăn. Nàng tựa vào tôi ngủ yên, cho đến khi màu tro nhạt trên bầu trời tan biến vào ánh nắng ban mai. Tôi nhìn nàng ngủ, một chút xao xuyến trong lòng, nhưng tâm hồn vẫn trong sáng, bởi đêm sao rực rỡ như thế nầy bao giờ cũng khai mở trong tôi những ý nghĩ cao đẹp. Muôn vàn vì sao vẫn tiếp tục cuộc hành trình lặng lẽ xung quanh chúng tôi, như một đàn cừu ngoan ngoãn. Đột nhiên, tôi có cảm tường như một trong những vì sao đó, vì sao xinh đẹp nhất và rực rỡ nhất, đã lạc đường và lặng lẽ tựa đầu vào vai tôi yên giấc ngủ.

Lê Tấn Tài
(Theo truyện Les Étoiles của Alphonse Daudet)