Đây là phương pháp giải trí tuyệt diệu nhứt giúp an lạc.

VÔ MÔN QUAN
(ẢI KHÔNG CỬA HAY CỬA KHÔNG)


Ekai [Vô Môn Huệ Khai: Wumen Huikai (C); Mumon Ekai (J) - 1183-1260
Thiền tông Lâm Tế Trung Hoa - LND]
Trần Trúc Lâm chuyển ra Việt ngữ.
Từ tập ' The Gateless Gate '; sao lục bởi Nyogen Senzaki và Paul Reps
( Dịch xong vào năm 1996. Hiệu đính vào năm 2007 )






Nếu bạn hảo ngọt và muốn sống dễ dãi thì xin đừng đọc cuốn sách này. Nó chỉ dành cho những người cương quyết mưu cầu giác ngộ, mưu cầu satori.
Điều ấy có thể xảy đến với bạn. Trong một nháy mắt nó mở ra. Bạn là một người hoàn toàn mới. Bạn nhìn sự vật không giống như trước.
Cái năng lực mới mẻ này đến bằng chứng ngộ chứ không bằng lý luận. Bất cứ bạn làm gì hay ở đâu đều chẳng có gì khác biệt. Nó không tạo ra lý. Nó tạo ra bạn.
Những đề thoại đầu cổ xưa của Trung Hoa này, gọi là công án, cốt giúp thiền sinh đoạn tuyệt với say sưa chữ nghĩa và phiêu lưu tư tưởng. Khi một thiền sinh quán chiếu về một công án, đó là một cách muốn nói rằng: Đừng phung phí đời bạn chỉ để mò mẫm; hãy hướng suy nghĩ và cảm quan vào một mục đích - và rồi hãy để cho nó xảy ra.
Phải chăng nghệ thuật khai sáng cho con ngưòi này đã mất? Không! nếu bạn biết để tâm - hay những gì khác nữa bạn có - vào nó. Nếu những nhà lãnh đạo của nhân loại ý thức hơn về điều này, để khi họ may mắn có được chút quyền nhỏ nhoi, họ bóc lột kẻ khác ít hơn.
Những thiền sư xưa này thường khai ngộ cho môn đệ bằng chỉ trích, hay ngay cả thét đánh. Khi các ngài khen ngợi có nghĩa là đã xem thường. Đó là thói quen. Các ngài rất quan tâm đến các đệ tử của họ nhưng bộc lộ nó trong hiện tiền, chứ không bằng lời lẽ. Họ là những người kiên cường, những người gây kích. Họ ban cho những câu hỏi mà câu trả lời là sự sống của một người.
Vậy câu trả lời đúng cho công án là gì? Có rất nhiều và cũng chẳng có câu nào. Ở Nhật có một cuốn sách rất hiếm, cố đề ra những câu trả lời thỏa đáng cho những câu hỏi khai tâm này. Thật là một trò buồn cười!
Bởi vì công án cũng chính là câu trả lời, và khi đã có một câu trả lời thỏa đáng thì Thiền đã chết.
Đoạn sau là phần tóm lược lời mở đầu của ấn bản Anh ngữ đầu tiên của cuốn sách này.

***

Giáo pháp của Đức Phật đã được truyền bá ở Ấn độ năm trăm năm trước thời Jesus và hằng ngàn năm trước Mohammed. Ngày nay đạo Phật là một trong những tôn giáo lớn cuả nhân lọai, cổ hơn cả Thiên chúa giáo và Hồi giáo.
Từ thế kỷ thứ nhất T.L, kinh Phật đã được dịch ra Hán văn bởi nhiều dịch giả Ấn và Hoa, từ triều đại này đến triều đại khác. Tuy nhiên tinh túy của Phật giáo lại được truyền sang Trung quốc vào năm 520 TL bởi Bồ Đề Đạt Ma, được xem như là Tổ thứ Nhất tông phái Thiền Trung Hoa. Yếu tính đạo giải thoát từ Đức Phật Thích Ca đã được thiền sư tỉnh tọa Bồ Đề Đạt Ma lưu chuyển và đệ tử của ngài nối tiếp, rồi truyền thừa cùng một cách qua biết bao thế hệ. Nhờ đấy mà Thiền du nhập, nuôi dưỡng và truyền bá khắp Trung quốc, rồi đến Nhật bản.
Chữ Nhật ZEN - chữ Hán CH 'AN, chữ Phạn DHYANA - (dĩ nhiên chữ Viêt là THIỀN, LND) - có nghĩa là trầm tư mặc tưởng. Thiền nhắm đến qua trầm tư mặc tưởng, để ngộ được điều mà Phật đã ngộ, sự giải thóat của tâm. Nó cung cấp một lối tự quán chiếu, thường là dưới sự chỉ dạy của một thiền sư.
Thiền có nhiều bản kinh, mà cuốn sách này là một, Mu-mon-kan (Vô Môn Quan hay Mậu Môn Quan) - thoát ý là "cửa không chắn" - đã được ghi lại bởi Thiền sư Trung Hoa Ekai, cũng còn gọi là Vô Môn, sống từ năm 1183 đến năm 1260. Tác phẩm gồm những mẩu đối thọai giữa các tổ và đệ tử xưa ở Trung quốc, vẽ cho thấy lối xóa bỏ khuynh hướng nhị nguyên, hướng ngoại, bao quát, và trí thức của các đệ tử để đạt đến bản lai diện mục, thực tính. Những vấn đề hay những thử thách nội tại mà các thiền sư hay dùng để đối chất với các đệ tử đươc gọi là công án, và mỗi câu truyện kể sau chính nó là một công án.
Những câu truyện dùng cả đến chữ phàm tục để phản ảnh pháp môn thâm hậu, quán chiêu vào nội tâm của mình. Thảng hoặc có vài trường hợp xem ra thô bạo nên được hiểu như là sinh động và thành tâm. Không có câu truyện nào cố làm ra vẻ luận lý. Chúng nhắm vào trạng thái của tâm chứ không phải vào chữ nghĩa. Nếu không hiểu được điều này thì trọng điểm của cổ kinh bị nhìn sai lệch. Toàn thể thâm ý là giúp cho thiền sinh phá vỡ được cái vỏ của đầu óc hạn chế mà đạt đến được lần sinh thứ hai miên viễn, satori, giác ngộ.
Mỗi thoại đầu là một lớp cản. Ai có được tinh thần Thiền đều đi qua được. Ai sống trong Thiền hiểu được hết công án này đến công án khác, theo lối của mình, mà thấy những cảnh giới không thể thấy và sống trong vô hạn.
Vô-Môn đã viết những lời này trong phần giới thiệu của cổ kinh.

***

"Thiền không có cửa. Chủ đích của lời Phật dạy là để giác ngộ kẻ khác. Vì vậy mà Thiền phải không cửa.
"Một người muốn đi qua ' cửa không ' phải làm thế nào bây giờ? Có người bảo thứ gì qua lại cổng đều không phải là của gia bảo, rằng thứ gì tạo ra do sự giúp đỡ của người khác thì đều bị tan rã và hũy hoại.
"Những lời nói như thế chẳng khác gì sóng nổi giữa bể lặng hay cắt xẻ thân người lành mạnh. Nếu kẻ nào bám cứng vào những gì người khác nói và cố gắng hiểu Thiền bằng lý giải thì kẻ ấy chẳng khác gì tên đần độn nghĩ rằng hắn có thể dùng gậy đập được mặt trăng hay gãi chỗ ngứa chân từ bên ngòai chiếc giày. Không bao giờ có thể được.
"Vào năm 1228 ta thuyết pháp cho chư tăng tại chùa Ryusho ở phía đông Trung quốc, và do lời yêu cầu của họ ta kể lại những công án cổ, với mong ước khơi dậy tinh thần Thiền của họ. Ta dụng ý dùng công án như một kẻ nhặt viên gạch để gõ cửa, sau khi cửa mở thì viên gạch chẳng còn hữu dụng nữa và bị ném đi. Lời ta, không ngờ lại được góp nhặt, và có đến bốn mươi tám công án, ta thêm vào lời bàn và kệ cho mỗi bài, tuy vậy sự sắp xếp lại không theo thứ tự đã kể. Ta gọi cuốn sách là Vô Môn Quan, mong rằng thiền sinh đọc nó như một cẩm nang.
"Nếu độc giả nào mạnh dạn tiến thẳng về phía trước trong thiền định, không ảo tưởng nào có thể quấy họ được. Họ sẽ liễu ngộ chẳng khác gì chư tổ ở Ấn và Hoa, có thể còn khá hơn. Nhưng nếu họ ngập ngừng dù một giây lát, họ sẽ như kẻ đứng nhìn người cỡi ngựa phi qua cửa sổ, và trong nháy mắt chẳng kịp trông thấy.
"Đại đạo không có cổng,
Ngàn lối đi vào nó.
Khi ai đi qua được cổng không cửa này
Thì thong dong giữa đất trời."

***

1.CON CHÓ CỦA JOSHU

Một vị sư hỏi Joshu [Triệu Châu Tùng Thẩm: Joshu Jushin (J) Zhaozhou Zongshen (C), 778-897 - LND], một thiền sư Trung Hoa:
"Con chó có Phật tánh không?"
Joshu trả lời: "KHÔNG"
Lời bàn của Vô-Môn: Để ngộ Thiền ta phải vượt qua rào cản của chư tổ. Giác ngộ luôn đến sau khi lối suy nghĩ bị chắn. Nếu ngươi không vượt qua rào cản của chư tổ, hoặc lối suy nghĩ không bị chắn, thì bất cứ điều gì ngươi nghĩ, điều gì ngươi làm đều giống như bóng ma vướng mắc. Ngươi có thể hỏi: Rào cản của tổ là gì? Một chữ thôi, KHÔNG, là nó.
Đó là rào cản của Thiền. Nếu ngươi vượt qua được, ngươi có thể diện kiến Joshu. Ngươi có thể tay nắm tay cùng với chư tổ. Có thú vị không?
Nếu ngươi muốn vượt qua rào cản này, ngươi phải vận dụng tất cả xương cốt trong thân ngươi, tất cả lổ chân lông của da ngươi, ngẫm nghĩ câu hỏi này: KHÔNG là cái gì? và mang nó theo ngày và đêm. Chớ nên cho nó là biểu tượng tiêu cực thông thường có nghĩa là không có gì. Nó không phải là trống không, đối lại với hiện hữu. Nếu ngươi thực muốn vượt qua rào cản này, ngươi phải có cảm giác như ngậm một viên sắt nóng mà ngươi không thể nuốt vào hay khạc ra.
Rồi sự thiển cận trước kia của ngươi biến mất. Và như trái cây chín mùa, cái nhìn chủ quan và khách quan của ngươi trở thành một. Nó như kẻ câm nằm mộng, hắn biết đấy nhưng không thể nói ra được.
Khi thiền sinh vào được trạng thái này thì cái vỏ tự-ngã của y bị đập vỡ và y có thể lay trời và dời đất được. Y sẽ như là một chiến sĩ vô địch với lưởi gươm bén. Nếu Phật đứng chắn lối, y sẽ chém nhào; nếu Tổ gây trở ngại, y sẽ giết ngay; và y sẽ được tự do ra vào cõi sinh tử. Y có thể nhập bất cứ cảnh giới nào cứ như là vào sân chơi nhà mình. Ta sẽ nói cho ngươi biết cách làm được như thế với công án này:
Hãy tập trung tất cả năng lực của ngươi vào chữ KHÔNG này, và không bao giờ ngưng nghỉ. Khi ngươi vào được KHÔNG này và chẳng hề ngưng nghỉ, sự liễu ngộ của ngươi sẽ như ngọn đèn cháy và chiếu sáng toàn thể vũ trụ.
Kệ rằng:
Con chó có Phật tánh không?
Đây là câu hỏi nghiêm trọng nhất.
Nếu ngươi nói CÓ hay KHÔNG,
Ngươi đánh mất Phật tánh của chính ngươi.

2. CON CHỒN CỦA HYAKUJO

Cứ mỗi lần Hyakujo [Bách Trượng Hòai Hải: Hyakụo Ekai (J); Baizhang Huaihai (C), 720-814 - LND] thuyết pháp, một ông lão đến nghe mà tăng chúng không hề thấy. Khi buổi giảng chấm dứt tăng chúng rời chỗ thì ông lão cũng ra về. Nhưng một ngày kia ông lão lại ở lại, Hyakujo hỏi: "Ông là ai?"
Ông lão trả lời: "Tôi không phải là người, nhưng tôi vốn là người khi Đức Phật Kashapa còn tại thế. Tôi là một thiền sư tu tại núi này. Bấy giờ, một trong những đệ tử của tôi hỏi rằng một người đã giác ngộ thì có còn chịu luật nhân quả không. Tôi trả lời: Kẻ giác ngộ không còn chịu luật nhân quả nữa. Vì câu trả lời này, do còn vướng mắc với tuyệt đối, mà tôi đã biến thành con chồn hơn năm trăm kiếp rồi, và tôi vẫn còn là chồn. Xin ngài hóa độ cho tôi bằng pháp ngôn của ngài để tôi thoát khỏi kiếp chồn? Bây giờ tôi xin hỏi ngài: Kẻ đã giác ngộ thì có còn chịu luật nhân quả không?"
Hyakujo bảo: "Kẻ đã giác ngộ là một người vẫn chịu luật nhân quả."
Sau câu ấy, ông lão thoắt ngộ. "Tôi đã được giải thoát," ông lão nói và cúi lạy. "Tôi không còn là chồn nữa, nhưng tôi phải để xác lại trong một cái hang sau núi. Xin được chôn cất theo lễ chư tăng." Rồi ông biến mất.
Hôm sau Hyakujo ra lệnh tăng trưởng chuẩn bị tang lễ cho một tăng sĩ. "Chẳng có ai mắc bệnh cả," tăng chúng thắc mắc. "Sư phụ có ý gì?"
Sau trai phạn, Hyakujo dắt tăng chúng đi vòng ra sau núi. Trong một cái hang, ngài dùng gậy kéo ra một cái xác của con chồn già và thực hiện lễ hỏa thiêu.
Đêm đó Hyakujo kể lại câu chuyện và giảng về luật nhân quả.
Sau khi nghe chuyện, Obaku [Hoàng Bá Hy Vận: Obaku Kiun (J), Huangbo Xiyun (C), ?-850 - LND] hỏi Hyakujo: "Con hiểu rằng ngày xưa có kẻ chỉ vì trả lời sai một câu hỏi Thiền đã biến thành con chồn năm trăm kiếp. Vậy ngày nay "Nếu một thiền sư trả lời đúng hết các câu hỏi thì việc gì sẽ xảy ra?"
Hyakujo bảo: "Hãy đến gần đây ta sẽ nói cho nghe."
Obaku đến gần và tát thầy một cái, vì y biết rằng đó là câu trả lời mà sư phụ sẽ ban cho.
Hyakujo vỗ tay cười cho sự sáng trí của đệ tử. "Ta tưởng rằng người tây trúc có bộ râu đỏ," ngài nói, "và bây giờ ta biết một người tây trúc có bộ râu đỏ."
Lời bàn của Vô-Môn: "Kẻ giác ngộ không phải là đối tượng." Làm thế nào mà câu trả lời này biến một tăng sĩ thành con chồn?
"Kẻ giác ngộ là một người với luật nhân quả." Làm thế nào mà câu trả lời này làm cho chồn được giải thóat?
Muốn hiểu rốt ráo được điều này, người ta phải chột một mắt.
Kệ rằng:
Chế ngự hay không chế ngự?
Cùng con súc sắc bày hai mặt.
Không chế ngự hay chế ngự,
Cả hai đều sai lầm thê thảm.

3. NGÓN TAY CỦA GUTEI

Gutei [Câu Chi còn gọi là Cụ Chỉ; Kinka Gutei (hay) Juzhi (J): Jinhua Juzhi (C), thế kỷ 9 - LND] thường đưa một ngón tay lên khi được hỏi một câu về Thiền. Một cậu bé thị giả bắt chước theo. Khi có người hỏi cậu rằng sư phụ của cậu giảng dạy điều gì vậy thì cậu liền đưa lên một ngón tay.
Chuyện tinh nghịch của cậu bé đến tai Gutei. Ngài liền nắm lấy cậu và cắt đứt ngón tay. Cậu bé la khóc và chạy mất. Gutei gọi cậu dừng lại. Khi cậu bé quay lại nhìn thầy, Gutei đưa lên một ngón tay của ngài. Ngay tức khắc, cậu bé liễu ngộ.
Khi Gutei gần qua đời, ngài cho gọi toàn tăng chúng lại. "Ta đạt đến Thiền-chỉ của ta," ngài bảo, "từ sư phụ của ta là Tenryu [Hàng Châu Thiên Long: Koshu Tenryu (J); Hangzhou Tianlong (C), Thế kỷ thứ 9 - LND], và cả một đời ta vẫn dùng chưa hết." Nói xong ngài thị tịch.
Lời bàn của Vô-Môn: Giác ngộ, điều mà Gutei và cậu bé đạt đến, không dính líu gì đến ngón tay cả. Nếu ai cứ mãi bám chặt vào cái ngón tay thì Tenryu bực mình đến độ sẽ tiêu hủy luôn cả Gutei, cậu bé và kẻ chấp trước.
Kệ rằng:
Gutei rẻ rúng pháp môn của Tenryu,
Giải thóat cậu bé bằng lưỡi dao.
So với vị thần Tàu di sơn đảo hải.
Thì lão Gutei bắt chước còn kém.

4. NGOẠI NHÂN KHÔNG RÂU

Wakuan [Hoặc Am Sư Thể: Wakuan Shitai (J); Huoan Shiti, 1108-1179, Viên Ngộ tông - LND] than phiền khi nhìn thấy tranh Bồ Đề Đạt Ma đầy râu rậm: "Tại sao ổng không có râu nhỉ?"
Lời bàn của Vô-Môn: Nếu ngươi muốn học Thiền, phải học với quả tim. Khi ngươi đạt được liễu ngộ, thì phải thực liễu ngộ. Chính ngươi phải có gương mặt của Đại Tổ Bồ Đề mới thấy được ngài. Chỉ thoáng nhìn cũng đủ rồi. Nhưng nếu ngươi bảo đã gặp ngài thì ngươi chưa hề thấy ngài.
Kệ rằng:
Người ta không nên bàn đến mộng
Trước mặt một tên đần.
Tại sao Bồ Đề Đạt Ma không có râu?
Thực là câu hỏi vớ vẩn!

5. KYOGEN LEO LÊN CÂY

Kyogen [Hương Nghiêm Trí Nhàn; Kyōgen Chikan (J) Xiangyan Zhixian (C), ?-898 - LND] bảo: "Thiền cứ như một người đu lơ lửng trên vực sâu răng cắn chặt vào cây. Tay không nắm được cành, chân không tựa vào nhánh, và bên dưới có kẻ hỏi: "Tại sao Bồ Đề Đạt Ma lại từ Ấn Độ đến Trung Hoa?"
"Nếu người đu cây không trả lời được, hắn thua; và nếu trả lời, hắn rơi tòm mất mạng. Vậy hắn phải làm gì nào?"
Lời bàn của Vô-Môn: Trong tình huống đó, mọi tranh biện tài tình đều vô ích. Nếu ngươi thuộc hết tam tạng kinh điển, ngươi chẳng dùng được. Khi ngươi có câu trả lời đúng, dù con đường quá khứ là đường tử, ngươi mở ra được con đường sinh mới. Nhưng nếu ngươi không trả lời được, ngươi phải sống đến bao đời để hỏi Phật tương lai, Phật Di Lặc.
Kệ rằng:
Kyogen là một kẻ gàn
Reo rắc độc dược diệt-ngã-mạn đó
Làm câm miệng các môn đồ
Và để nước mắt tuôn trào từ đôi mắt trơ của họ.

6. PHẬT XOAY MỘT CÀNH HOA

Khi Đức Phật ngự tại núi Linh Thứu (Grdhrakuta Mountain), Ngài xoay một cành hoa trong tay và đưa ra trước thính chúng. Mọi người đều im lặng. Duy chỉ có Ma Ha Ca Diếp (Maha Kashapa) mỉm cười, nhưng vẫn cố giữ nghiêm nét mặt.
Đức Thế Tôn bảo: "Ta có nhãn tạng của chánh pháp, tâm của Niết bàn, thực nhận của vô tướng, và Giáo pháp vi diệu khó nghĩ bàn. Không thể diễn bằng lời, mà chỉ biệt truyền ngoài giáo lý. Giáo pháp này ta giao lại cho Ma Ha Ca Diếp."
Lời bàn của Vô-Môn: Phật mặt vàng tưởng rằng có thể lừa được mọi người. Ngài làm cho chư thiện tri thức trở nên lố bịch, và mượn đầu heo bán thịt cừu. Và ngay cả ngài cũng nghĩ rằng như thế là tuyệt. Nếu toàn thính chúng đều cười cả thì sao? Làm thế nào ngài có thể truyền giáo pháp? Và lại nữa, nếu Ma Ha Ca Diếp không mỉm cười, làm thế nào ngài có thể truyền giáo pháp? Nếu Ngài bảo rằng sự liễu ngộ có thể truyền thừa, thì rõ ngài cũng giống như tên bịp thị thành lừa anh nhà quê khờ khạo, và nếu Ngài bảo rằng nó không thể truyền thừa được thì tại sao Ngài lại giao phó cho Ma Ha Ca Diếp?
Kệ rằng:
Khi xoay cành hoa
Sự vờ vĩnh của Ngài đã bị lộ.
Không ai trong vòng thiên địa có thể hơn được
Gương mặt nhăn vết của Ma Ha Ca Diếp.

7. JOSHU RỬA BÁT

Một vị tăng thưa với Joshu [Triệu Châu Tùng Thẩm: Joshu Jushin (J) Zhaozhou Zongshen (C), 778-897 - LND]: "Con vừa nhập thiền thất, Xin chỉ dạy."
Joshu hỏi: "Ăn cháo chưa?"
Vị tăng trả lời: "Bạch, đã ăn rồi."
Joshu nói: "Vậy thì đi rửa bát đi."
Ngay lúc đó vị tăng liễu ngộ.
Lời bàn của Vô-Môn: Joshu là người đã mở miệng cho thấy tâm của ngài. Ta nghi rằng vị tăng kia chưa chắc đã thấy được tâm của Joshu. Ta mong rằng ông ta không nhầm cái chuông với bình chế nước.
Kệ rằng:
Thật là quá hiển lộ nên khó thấy.
Có kẻ khờ cầm đèn đi tìm lửa.
Nếu hắn biết lửa ra sao,
Thì hắn đã nấu cơm sớm hơn.

8. BÁNH XE CỦA KEICHU

Getsuan [Nguyệt Am Thiệu Quả: Getsuan (hay) Gettan Zanka (hay) Engo Kokugon (J); Yuanwu Keqin (C), 1063-1135 - Lâm Tế tông TQ. - LND] nói với môn đồ: "Keichu (Hề Trọng), người chế ra bánh xe đầu tiên của Trung quốc, làm hai bánh xe, mỗi bánh có năm mươi nang. Bây giờ giả dụ các ngươi tháo cái trục ra thì bánh xe sẽ ra sao? Và nếu Keichu làm vậy thì ông ta có được gọi là tổ chế ra bánh xe không?"
Lời bàn của Vô-Môn: Nếu ai có thể trả lời câu hỏi này tức khắc, thì mắt hắn sẽ như sao xẹt và trí óc hắn sẽ như một tia chớp.
Kệ rằng:
Khi bánh xe không trục xoay,
Tổ hay chẳng tổ có thể ngưng nó lại.
Nó xoay trên trời và dưới đất,
Nam, bắc, đông, và tây.

9. MỘT ĐỨC PHẬT TRƯỚC THỜI CÓ SỬ

Một vị tăng hỏi Seijo [Hưng Dương Thanh Nhượng: Koyo Seijo (J); Xingyang Quingrang (C), 830-888, Lâm Tế tông TQ. - LND] "Con biết rằng một đức Phật trước thời có sử (Phật Đại Thông Trí Thắng - LND), đã tọa thiền qua bảy kiếp mà vẫn không ngộ được chân lý tối thượng, vì thế mà không hoàn toàn được giải thoát. Tại sao vậy?"
Seijo trả lời: "Câu hỏi của ông đã tự giải thích rồi."
Vị tăng hỏi tiếp: "Tại sao đức Phật đó tọa thiền mà vẫn không đạt được Phật quả?"
Seijo trả lời: "Vì ông ta chưa thành Phật."
Lời bàn của Vô-Môn: Ta cho rằng ông ấy ngộ đạo, nhưng ta không nhận rằng ông ấy hiễu rõ. Khi một người ngu liễu ngộ thì thành thánh. Khi một bậc thánh bắt đầu hiểu ra thì thành người ngu.
Kệ rằng:
Tốt hơn nên ngộ tâm chứ chẳng phải thân.
Khi tâm giác ngộ thì không còn gì để lo ngại cho thân.
Khi tâm và thân trở thành một
Thì người được tự tại, chẳng còn ham muốn lợi danh.

10. SEIZEI CÔ ĐỘC VÀ NGHÈO NÀN

Một vị tăng tên là Seizei [Thanh Thóat; một thiền sinh. Đừng nhầm với Thanh Thoát: Seizei (J); Quingshui (C), 714-792 - LND] hỏi Sozan [Tào Sơn Bản Tịch: Sozan Honjaku (J); Caoshan Benji (C), 840-901 - LND]: "Seizei cô khổ. Ngài có giúp được không?"
Sozan hỏi: "Seizei?"
Seizei đáp: "Bạch Hòa thượng."
Sozan bảo: "Ngươi được Thiền, là món mỹ tửu đệ nhất của thiên hạ (Trung quốc), và đã uống xong ba chén, mà vẫn nói là chưa thấm môi ư!"
Lời bàn của Vô-Môn: Seizei hơi quá đà. Tại sao vậy? Bởi vì Sozan rất tinh mắt biết rõ người đối thoại. Ngay thế, ta vẫn muốn hỏi: Ở thời điểm nào thì Seizei đã uống rượu?
Kệ rằng:
Kẻ nghèo nhất Trung quốc (Phạm Nhiễm - LND),
Kẻ gan nhất Trung quốc (Hạng Võ - LND),
Chỉ vừa đủ cầm hơi,
Mà lại muốn so bì với người giàu nhất.

11. JOSHU KHẢO HẠCH MỘT VỊ TĂNG ĐANG THAM THIỀN

Joshu [Triệu Châu Tùng Thẩm: Joshu Jushin (J) Zhaozhou Zongshen (C), 778-897 - LND] đến tịnh thất của một vị tăng đang tọa thiền và hỏi: "Cái gì là cái gì?"
Vị tăng giơ lên nắm tay.
Joshu đáp: "Thuyền không thể lưu ở nơi nước cạn." Rồi bỏ đi.
Vài ngày sau Joshu trở lại và hỏi cùng một câu như trước.
Vị tăng đáp lại cũng cùng một cách không khác.
Joshu bảo: "Khá trao, khá nhận, giết hay, cứu giỏi." Rồi vái chào.
Lời bàn của Vô-Môn: Vẫn là một nắm tay không khác ở hai lần. Tại sao Joshu không chứng cho lần đầu mà lại nhận lần sau? Sai trật ở chỗ nào?
Ai trả lời được thì đã biết rằng lưỡi của Joshu không xương nên nhiều đường lắt léo. Có thể là Joshu sai. Hoặc qua ông sư kia, Ngài có thể biết rằng mình sai.
Nếu ai nghĩ rằng nội tâm của mình hơn hẳn nội tâm của người khác, quả là kẻ không có mắt.
Kệ rằng:
Nhãn quan như sao xẹt,
Và Thiền quán tựa lằn chớp.
Lưỡi gươm giết chết người
Cũng là lưỡi gươm cứu sống người.

12. ZUIGAN GỌI SƯ PHỤ

Zuigan [Thụy Nham Sư Ngạn (hay) Đoan Nham Sư Nhan: Zuigan Shigen (J); Ruiyan Shiyan (C), thế kỷ 9 TQ. - LND] tự mình gọi lớn mỗi ngày: "Sư phụ."
Rồi lại tự đáp: "Dạ, bạch thầy."
Và liền thêm: "Hãy tỉnh táo nhé."
Rồi tự đáp: "Dạ, bạch thầy."
"Và sau đó," Ngài tiếp, "đừng để bị người khác lừa gạt nhé."
"Dạ, bạch thầy; Dạ, bạch thầy." Ngài tự trả lời.
Lời bàn của Vô-Môn: Lão Zuigan tự bán tự mua. Ngài đang làm một màn múa rối. Ngài mang một mặt nạ để gọi "Sư phụ" rồi mặt nạ khác để trả lời. Mang cái khác để nói: "Hãy tỉnh táo nhé." Và lại cái khác, "Đừng để bị người khác lừa gạt nhé." Nếu ai vướng mắc vào bất cứ cái mặt nạ nào thì quả là lầm to, mà còn bắt chước Zuigan, thì sẽ không khác chồn cáo.
Kệ rằng:
Vài thiền sinh không ngộ được con người thật sau cái mặt nạ.
Bởi vì họ chỉ thấy cái tự ngã.
Cái tự ngã là mầm sanh tử,
Mà kẻ mê gọi nó là chân nhân.

13. TOKUSAN ÔM BÌNH BÁT

Tokusan [Đức Sơn Tuyên Giám; Tokusan Senkan (J) Deshan Xuanjian (C), 782-865 - LND] từ Thiền đường đến nhà bếp tay ôm bình bát. Seppo [Tuyết Phong Nghĩa Tồn: Seppō Gison (J); Xuefeng Yicun (C), 822-908 - LND] phụ trách nấu nướng (điển tòa - LND) thấy Tokusan bảo: "Tiếng trống hiệu báo giờ ăn chưa điểm. Ngài đi đâu với cái bình bát vậy?"
Tokusan quay trở về thiền thất.
Seppo thuật lại câu chuyện với Ganto [Nham Đầu Toàn Hoát: Gant? Zenkatsu (J); Yantou Quanhuo (C), 828-997 - LND]. Ganto bảo: "Lão sư Tokusan chẳng hiểu được chân lý tối thượng."
Tokusan nghe được lời phê liền cho gọi Ganto đến gặp. "Ta có nghe," ngài bảo, "ông không tán thành lối thiền của ta." Ganto gián tiếp thú nhận. Tokusan chẳng nói gì.
Hôm sau Tokusan thuyết pháp cho tăng chúng một cách khác hẳn. Ganto cười rộ và vỗ tay nói: "Ta thấy lão sư hiểu rõ chân lý tối thượng. Chẳng có ai ở Trung quốc có thể hơn được."
Lời bàn của Vô-Môn: Nói đến chân lý tối thượng, cả Ganto và Tokusan chẳng hề mộng tưởng. Rốt ráo, họ chỉ là những kẻ đần độn.
Kệ rằng:
Ai hiểu được diệu đế thứ nhất
Hẳn phải hiểu chân lý sau cùng
Sau cùng và thứ nhất,
Không giống nhau ư?

14. NANSEN CHẶT CON MÈO LÀM HAI KHÚC

Nansen [Nam Truyền Phổ Nguyện: Nansen Fugan (J) Nanquan Puyuan (C), 738-835 - LND] bắt gặp hai tăng sinh trú ở hai dãy thiền thất đông và tây cãi nhau chỉ vì con mèo. Ngài chộp lấy con mèo và bảo họ: "Nếu ai nói được một lời phải thì cứu được con mèo."
Chẳng ai trả lời được. Nansen liền chặt con mèo làm hai khúc.
Tối đó Joshu [Triệu Châu Tùng Thẩm: Joshu Jushin (J) Zhaozhou Congshen (C), 778-897 - LND] trở về và Nansen kể lại câu chuyện. Joshu liền tháo dép đội lên đầu bước trở ra.
Nansen bảo: "Nếu ngươi có mặt ở đấy thì đã cứu được con mèo."
Lời bàn của Vô-Môn: Tại sao Joshu đội dép lên đầu? Nếu ai trả lời được thì sẽ hiểu Nansen phán quyết như thế nào. Nếu không, thì coi chừng đầu mình.
Kệ rằng:
Nếu Joshu có mặt ở đấy,
Ông ta có thể đã phán quyết ngược lại.
Joshu chụp lấy dao
Và Nansen phải xin tha mạng.

15. BA CÁI LẠY CỦA TOZAN

Tozan [Động Sơn Thủ Sơ: Tōzan Shusho (J), Dòngshān Shǒushū (C); 910-990 - LND] đến ra mắt Ummon [Vân Môn Văn Yển: Ummon Bun'en (J), Yúnmén Wényăn (C), 864-949 – LND]. Ummon hỏi từ đâu lại.
Tozan thưa: "Từ làng Sato (Tra Độ - LND)."
Ummon hỏi "An cư kiết hạ ở chùa nào?"
Tozan trả lời: "Chùa Hoji (Báo Từ - LND), phía nam của chíếc hồ (Hồ Nam - LND)."
"Ông rời lúc nào?" Ummon hỏi, mà thầm nghĩ chẳng biết Tozan cứ tiếp tục trả lời như thế đến bao lâu.
"Ngày hai nươi lăm tháng Tám," Tozan trả lời.
Ummon bảo: "Ta phải cho ngươi ba gậy mới đặng, nhưng ta tha cho bữa nay."
Ngày hôm sau Tozan bái kiến Ummon và hỏi: "Ngày hôm qua ngài đã tha cho tôi ba gậy. Tôi chẳng biết mình làm gì quấy."
Thất vọng trước câu nói, Ummon bảo: "Ngươi thật là vô dụng. Chỉ là kẻ lê lết từ chùa này đến chùa khác mà thôi."
Lời của Ummon chưa dứt, Tozan chợt ngộ.
Lời bàn của Vô-Môn: Ummon cho Tozan thức ăn Thiền bổ dưởng. Nếu Tozan tiêu hóa được, Ummon có thể thâu nhận sư vào hội chúng.
Qua một đêm Tozan bơi lội trong biển phải quấy, nhưng đến sáng Ummon đập vỡ được cái vỏ cứng của sư. Nghĩ cho cùng, thì sư cũng chẳng sáng trí mấy.
Bây giờ ta muốn hỏi: Tozan có đáng bị ba gậy hay không? Nếu các ngươi nói đáng thì không phải chỉ Tozan mà ngay đến mỗi người trong bọn các ngươi phải bị đòn. Nếu các ngươi bảo không, thì há Ummon đã nói lời dối trá. Nếu trả lời thông suốt được, thì ngươi có thể ăn cùng món với Tozan.
Kệ rằng:
Sư tử mẹ thô tháp dạy cho con
Khi chúng nhảy, nó liền đập cho ngã
Khi Ummon gặp Tozan, mũi tên thứ nhất còn nhẹ
Đến mũi thứ hai thì ngấm sâu.

16. CHUÔNG VÀ ÁO CÀ SA

Ummon [Vân Môn Văn Yển: Ummon Bun'en (J), Yúnmén Wényăn (C), 864-949 - LND] hỏi: "Cõi ta bà thật lớn, tại sao ngươi lại theo tiếng chuông và mặc áo cà sa?"
Lời bàn của Vô-Môn: Khi tu học thiền, người ta không cần phải nương theo âm thanh, hoặc màu sắc, hoặc hình tướng. Dù rằng thông thường có kẻ đạt được nội tâm khi nghe một âm, hoặc thấy một sắc hoặc một tướng. Đó không phải là thiền. Người thực tu học thiền chế ngự được cà âm, sắc, tướng, và hiễn lộ chân lý trong cuộc sống hằng ngày.
Âm đến tai, tai tìm đến âm. Khi ngươi ngăn được âm thanh và xúc giác, ngươi hiểu được gì? Người ta không thể hiểu khi dùng tai để nghe. Để hiểu được cặn kẽ hơn, người ta phải thấy được âm thanh.
Kệ rằng:
Khi ngươi hiểu, ngươi là người cùng một nhà;
Khi ngươi không hiểu, ngươi là một kẻ lạ.
Những ai không hiểu là người cùng một nhà,
Và khi họ hiểu thì thành kẻ lạ.

17. BA TIẾNG GỌI CỦA QUỐC SƯ

Chu (Trung - LND), còn gọi là Kokushi (quốc sư - LND) [Nam Dương Huệ Trung: Nanyo Echu (J); Nanyang Huizhong (C), 695-775 - LND], là phụ đạo của Hoàng đế, gọi thị giả của ngài "Oshin." (Thị giả - LND)
Thị giả liền đáp: "Dạ."
Quốc sư lập lại, muốn thử người đồ đệ: "Oshin."
Thị giả cũng lập lại: "Dạ."
Quốc sư gọi: "Oshin."
Thị giả trả lời: "Dạ."
Quốc sư bảo: "Thứ lỗi cho ta đã gọi ngươi, nhưng ngươi phải xin lỗi ta." [Hán âm: "Tương vị ngộ cô phụ nhữ, nguyên lai khước thị nhữ cô phụ ngô". Nghĩa: Tưởng ta cô phụ ngươi, không ngờ ngươi cô phụ ta. - LND]
Lời bàn của Vô-Môn: Khi lão tăng Chu gọi Oshin ba lần, lưỡi của lão sư đã rã ra, nhưng khi Oshin đáp lại ba lần thì lời của y quả thật là thông minh. Trung lão sư đã suy kiệt và cô quạnh, và lối dạy của lão sư chẳng khác gì nắm đầu bò để cho ăn lá đậu.
Oshin biểu lộ thiền của y cũng chẳng mấy khó. Bụng đã no nên y chẳng còn muốn ăn cao lương. Khi nước đã giàu thì dân biếng nhác; khi gia đình phồn vinh thì con hư hỏng.
Bây giờ ta muốn hỏi ngươi: Ai phải xin lỗi?
Kệ rằng:
Khi kho lương thực của nhà tù chỉ chứa sắt, chẳng còn chỗ nhốt người thì tù nhân bị khốn đốn gấp bội.
Khi chẳng còn chỗ cho thiền trong đầu của thế hệ chúng ta, thì thật là đáng lo.
Nếu ngươi cứ cố giữ chặt tấm cửa của căn nhà đang sập,
Ngươi cũng sẽ bị khốn đốn.


18. BA CÂN CỦA TOZAN

Khi Tozan [Động Sơn Thủ Sơ: Động Sơn Thủ Sơ: Tōzan Shusho (J), Dòngshān Shǒushū (C); 910-990 - LND] đang cân vừng, một tăng sĩ hỏi: "Phật là gì?"
Tozan bảo: "Bó vừng này nặng ba cân."
Lời bàn của Vô-Môn: Thiền của lão sư Tozan cứ y như là con hến. Ngay khi miệng hến mở ra ngươi có thể thấy tất cả bên trong. Tuy thế, ta muốn hỏi ngươi: Ngươi có thấy Tozan thực không?
Kệ rằng:
Ba cân vừng ngay trước mũi ngươi,
Thực gần, mà tâm thì lại còn gần hơn.
Kẻ nào nói đến xác nhận và phủ nhận
Thì vẫn sống trong vòng đúng, sai.

19. MỖI NGÀY ĐỀU LÀ ĐẠO [hay BÌNH THƯỜNG TÂM THỊ ĐẠO]

Joshu [Triệu Châu Tùng Thẩm: Joshu Jushin (J) Zhaozhou Zongshen (C), 778-897 - LND] hỏi Nansen [Nam Truyền Phổ Nguyện: Nansen Fugan (J) Nanquan Puyuan (C), 738-835 - LND]: "Đạo là gì?"
Nansen bảo: "Đời sống hằng ngày là đạo"
Joshu hỏi: "Có tìm hiểu được chăng?"
Nansen đáp: "Nếu ông cố tìm hiểu thì ông đã ở xa nó rồi."
Joshu hỏi: "Nếu không tìm hiểu thì làm sao biết được nó là đạo?"
Nansen bảo: "Đạo không bị lệ thuộc vào cái thế giới nhận biết, và cũng chẳng lệ thuộc váo thế giới không nhận biết. Cảm quan là huyễn hóa, và không cảm quan là vô tri. Nếu ông muốn đạt đến đạo chân thực không nghi ngại, thì hãy du mình vào chốn thênh thang như bầu trời. Ông không thể gọi nó là thiện mỹ hay không thiện mỹ."
Đến đấy Joshu chợt ngộ.
Lời bàn của Vô-Môn: Nansen đã có thể xóa tan nỗi nghi ngại đong cứng của Joshu ngay khi ông này lên tiếng hỏi. Ta ngờ Joshu chưa đạt đến chỗ Nansen đã ngộ. Ông ta phải tu học thêm ba mươi năm nữa mới đặng.
Kệ rằng:
Mùa xuân, trăm hoa đua nở; mùa thu, trăng vằng vặt;
Mùa hạ, cơn gió mát; mùa đông, tuyết sẽ rơi.
Nếu điều vô dụng không vướng mắc tâm ngươi,
Bất cứ mùa nào cũng đều là mùa tốt cả.

20. NGƯỜI GIÁC NGỘ

Shogen [Tùng Nguyên Sùng Nhạc: Shōgen sūgaku (J); Songyuan Chongyue (C) 1139-1209 - LND] hỏi: "Tại sao người giác ngộ lại không đứng dậy mà tự lý giải?" Và ngài lại bảo: "Lời nói không nhất thiết phải phát ra từ lưỡi."
Lời bàn của Vô-Môn: Shogen đã nói toạc ra rồi, thế mà được bao nhiêu người hiểu đây? Nếu có kẻ quán triệt được, hắn phải đến chỗ của ta ở để thử vài trượng. Tại sao, hãy nghe đây, muốn thử vàng ròng, ngươi phải nhìn qua lửa.
Kệ rằng:
Nếu đôi chân bậc giác ngộ dời gót, thì biển cả chắc phải tràn;
Nếu cái đầu đó cúi xuống, thì nó đã nhìn khắp cung trời đao lợi.
Cái thân như thế thì không thể nghỉ ngơi ..
Ai làm tiếp được bài thơ này.

21. CỤC PHÂN KHÔ

Một vị tăng hỏi Ummon [Vân Môn Văn Yển: Ummon Bun'en (J), Yúnmén Wényăn (C), 864-949 - LND]: "Phật là gì?"
Ummon trả lời ông ta: "Cục phân khô." [Hán âm: Càn thỉ quyết: Que cứt khô - LND].
Lời bàn của Vô-Môn: Theo ta thì Ummon tệ quá, ngài đã không thể phân biệt được mùi vị của các món ngon, hoặc giả ngài đã quá bận để viết chữ cho dễ đọc. Thôi thì ngài đã muốn giữ thiền môn của ngài với cục phân khô. Lời dạy của ngài chẳng dùng được.
Kệ rằng:
Chớp sáng lòe,
Làm mưa sa.
Trong nháy mắt
Ngươi không kịp thấy.

22. CÂY CỜ CỦA KASHAPA

Ananda hỏi Kashapa (Ca Diếp - LND): "Đức Phật trao cho sư huynh kim y làm tín vật kế thừa. Ngài còn trao gì nữa chăng?"
Ca-Diếp bảo: "Ananda."
Ananda đáp: "Dạ, sư huynh."
Ca-Diếp nói: "Ngươi có thể hạ cây sát can (trụ cờ - LND) của ta xuống và dựng cây sát can của ngươi lên."
Lời bàn của Vô-Môn: Nếu ai hiểu được như vậy thì sẽ thấy rằng tình sư huynh xưa vẫn đậm, nhưng nếu y không hiểu thì, cho dù y tu đến mấy kiếp trước cả thời chư Phật, y vẫn khó mà liễu ngộ.
Kệ rằng:
Câu hỏi thì vớ vẩn, nhưng câu trả lời thì thân thiết.
Khi nghe, có bao nhiêu người chú ý?
Sư huynh gọi, sư đệ đáp,
Tiết xuân này chẳng thuộc vào mùa thường.

23. KHÔNG NGHĨ THIỆN, KHÔNG NGHĨ ÁC

Khi đã giác ngộ, Lục tổ [Đại Giám Huệ Năng: Daikan E 'no (J); Daijian Huineng (C), 638-713 - LND] được Ngũ tổ trao cho y bát kế thừa vốn đã được truyền lại từ Đức Phật qua bao thế hệ.
Một vị tăng tên là E-myo (Huệ-Minh - LND), vì ghen tức đuổi theo để giành cho được báu vật. Lục tổ đặt y bát trên một tảng đá trên đường và bảo E-myo: "Các món này chỉ là biểu tượng của lòng tin. Chẳng có gì đáng để phải tranh giành. Nếu sư huynh muốn lấy thì cứ giữ lấy."
Nhưng khi E-myo đến nhặt y bát thì chúng lại nặng như núi, chẳng tài nào nhấc lên nổi. Run rẩy vì xấu hổ, y bảo: "Tôi đến đây chỉ vì pháp, chứ chẳng phải vì các báu vật này. Xin chỉ dạy cho."
Lục tổ nói: "Khi ông không nghĩ thiện, khi ông không nghĩ ác, thì bản lai diện mục của ông là gì?"
Với lời này E-myo chợt ngộ. Mồ hôi toát ra như tắm, y khóc và cúi mình nói: "Ngài đã dạy cho mật ngôn với diệu nghĩa. Còn có phần thậm thâm nào nữa trong giáo pháp?"
Lục tổ đáp: "Điều ta nói với ông chẳng có gì bí hiểm cả. Khi ông rõ được bản lai diện mục của ông thì điều bí mật đều tùy thuộc vào ông."
E-myo nói: "Tôi theo Ngũ tổ bao nhiêu năm, mà mãi đến lúc này mới nhận ra được tự tánh của mình. Nhờ sự chỉ dạy của ngài tôi mới tìm ra được nguồn. Chỉ có người uống nước mới biết được là nước nóng lạnh ra sao. Xin được tôn ngài làm thầy được chăng?"
Lục tổ đáp: "Chúng ta cùng học với Ngũ tổ. Xin gọi Ngài là thầy, nhưng nên quý trọng những gì ông vừa đạt đuợc.
Lời bàn của Vô-Môn: Lục tổ quả là tốt bụng ngay cả lúc khẩn cấp. Cứ như là ngài bóc vỏ và hạt của quả chín, rồi mở miệng môn đồ ra cho ăn.
Kệ rằng:
Ngươi không thể diễn tả nó, ngươi không thể hình dung nó,
Ngươi không thể nhìn ngắm nó, ngươi không thể cảm nhận nó.
Đó là bản lai diện mục của ngươi, nó chẳng ẩn trốn ở đâu cả.
Dù thế gian bị diệt, nó không hề bị tan.

24. CHẲNG NÓI, CHẲNG IM

Có tăng hỏi Fuketsu [Phong Huyệt Diên Chiểu: Fuketsu Ensho? (J); Feng-Hsueh Yen-chao (C), 896-973 - LND]: "Chẳng nói, chẳng im, làm sao tỏ rõ diệu đế?"
Fuketsu bảo: "Ta nhớ mùa xuân ở Nam Hoa. Muôn chim hót vang giữa ngàn hoa thơm ngát."
Lời bàn của Vô-Môn: Fuketsu thường có lối Thiền như tia chớp. Khi có dịp, ngài xẹt ngay. Nhưng lần này thì ngài lại không làm vậy mà còn mượn một câu thơ cổ. Hãy bỏ qua lối thiền của Fuketsu đi. Nếu ngươi muốn làm sáng chân lý, cứ nói ra, cứ im đi, và cho ta biết lối thiền của ngươi.
Kệ rằng:
Chẳng nói rõ điều ngài quán triệt,
Ngài chẳng dạy chi, lại mượn lời người khác.
Giá mà ngài cứ lải nhải mãi,
Chắc người nghe cũng đến xấu hổ.


25. THUYẾT PHÁP TỪ GHẾ THỨ BA

Trong mơ, Kyozan [Ngưỡng Sơn Huệ Tịch: Kyōzan Ejaku (J); Yangshan Huiji (C), 807-883 – LND] đến cõi tịnh độ của Phật A Di Đà. Ngài lại thấy mình ngồi ở chiếc ghế thứ ba trong điện Phật. Có người xướng lên: "Hôm nay đến phiên vị ngồi ở ghế thứ ba lên thuyết pháp."
Kyozan đứng lên nói: "Diệu đế của giáo pháp Đại thừa không thể nghĩ bàn được, vượt ra khõi ngôn ngữ và tư tưởng. Chư vị có hiểu không?"
Lời bàn của Vô-Môn: Ta muốn hỏi các ngươi: Ngài thuyết hay không thuyết? Khi ngài mở miệng là đã lạc. Khi ngài mím miệng là đã lạc. Nếu ngài không mở miệng, nếu ngài không mím miệng, ngài đã đi xa chân lý đến mười vạn dặm.
Kệ rằng:
Tuy giữa ban ngày,
Mà ngài mơ, và nói về giấc mơ.
Một quái vật giữa những quái vật,
Ngài định lừa cả thính chúng.

26. HAI VỊ SƯ KÉO TẤM RÈM

Thiền sư Hōgen [Pháp Nhãn Văn Ích: Hōgen Bun'eki (J); Fayan Wenyi (C), 885-958 - LND] thuộc tự viện Seiryo (Thanh Lương tự - LND) nhìn thấy tấm rèm tre thường hạ xuống để tọa thiền chưa được kéo lên khi ngài sắp sửa thuyết pháp trước buổi cơm tối. Ngài chỉ tấm rèm, và có hai vị tăng từ giữa thính chúng đứng dậy kéo rèm lên.
Hogen bảo sau khi quan sát các động tác: "Tăng sinh trước khá, tăng sinh sau kém."
Lời bàn của Vô-Môn: Ta muốn hỏi các ngươi: Giửa hai tăng sinh ai được ai thua? Nếu trong đám các ngươi có kẻ chột, thì hẳn đã thấy sự thất bại nơi ông thiền sư. Tuy vậy ta không bàn đến được và thua.
Kệ rằng:
Khi tấm rèm được kéo lên, bầu trời mở ra,
Mà bầu trời thì nào có tùy theo Thiền quán.
Tốt hơn nên quên đi bầu trời bát ngát
Và chẳng màng đến gió thoảng.

27. CHẲNG PHẢI TÂM, CHẲNG PHẢI PHẬT, CHẲNG PHẢI PHÁP

Một vị tăng hỏi Nansen [Nam Truyền Phổ Nguyện: Nansen Fugan (J) Nanquan Puyuan (C), 738-835 - LND]: "Có pháp môn nào mà chưa có ai thuyết bao giờ?" Nansen bảo: "À, có."
"Là pháp môn nào vậy?" vị tăng hỏi.
Nansen đáp: "Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải pháp."
Lời bàn của Vô-Môn: Lão sư Nansen bố thí lời quí báu của Ngài. Đáng ra thì Ngài phải phật lòng lắm.
Kệ rằng:
Nansen quá nhân từ đã đánh mất báu vật.
Thật ra lời nói chẳng có mãnh lực nào.
Cho dù núi cao thành biển cả,
Lời nói chẳng thể khai tâm cho kẻ khác được.

28. THỔI TẮT NGỌN NẾN

Tokusan [Đức Sơn Tuyên Giám; Tokusan Senkan (J) Deshan Xuanjian (C), 782-865 - LND] theo học Thiền với Ryutan [Long Đàm Sùng Tín: Ryutan Shoshin (J); Longtan Chongxin (C), Thế kỷ 8/9 - LND]. Một đêm kia sư đến hỏi Ryutan nhiều câu. Thiền sư bảo: "Đã khuya rồi. Sao ông chưa đi ngủ?"
Nghe vậy, Tokusan vái chào và vén rèm lui ra, nói thêm: "Trời bên ngoài tối quá."
Ryutan trao cho Tokusan một cây nến đang cháy. Ngay khi Tokusan cầm lấy, Ryutan thổi tắt ngọn nến. Tokusan chợt ngộ.
"Ông đạt được gì nào?" Ryutan hỏi.
"Từ nay trở đi," Tokusan đáp, "con sẽ không còn nghi ngờ lời thầy dạy."
Hôm sau Ryutan nói với thính chúng: "Ta biết một tăng sinh trong đám các người. Răng của hắn giống như cây kiếm, miệng của hắn tựa như bát máu. Nếu có người nện cho hắn một gậy thật đau, hắn cũng chẳng màng quay lại nhìn. Một ngày kia, hắn sẽ đạt đến tuyệt đỉnh và truyền thừa giáo pháp của ta."
Cũng ngày ấy, Tokusan đem những bản luận của sư về kinh ra đốt sạch trước thiền đường. Sư bảo "Tuy kinh điển diệu vợi, nhưng so với sự chứng ngộ này, chúng chỉ là như sợi lông so với bầu trời. Tuy sự hiểu biết về thế gian phức tạp có sâu sắc đến đâu, so với sự chứng ngộ này, nó chỉ giống như một giọt nước trong biển cả." Xong sư rời bỏ thiền viện.
Lời bàn của Vô-Môn: Khi Tokusan còn ở quê nhà, tuy có nghe nói đến thiền, ngài vẫn xem thường. Ngài nghĩ: "Bọn sư ở Nam man bảo có thể giáo ngoại biệt truyền. Láo cả, ta phải đến dạy chúng." Bèn đi về phương nam. Ngài nghỉ chân ở một quán gần thiền viện của Ryutan. Bà lão chủ quán chợt thấy hỏi: "Ngài mang vác gì mà nặng thế?"
Tokusan đáp: "Đây là luận bản về Kinh Kim Cang do ta biên soạn sau bao nhiêu năm nghiền ngẫm."
Bà lão nói: "Lão đã đọc kinh ấy, có đoạn nói: Tâm quá khứ không thể trụ, tâm hiện tại không thể trụ, tâm tương lai không thể trụ. Ngài cần dùng ít trà và món giải khát. Vậy ngài đem tâm nào ra mà dùng đây?"
Tokusan sửng sốt giây lâu, rồi hỏi bà lão: "Lão bà có biết đại sư trí nào ở quanh đây không?"
Bà lão chỉ đường đến Ryutan cách đấy 5 dặm. Thái độ của Tokusan trở nên khiêm cung, khác hẳn lúc mới khởi hành. Ryutan thì quá tử tế đến độ quên cả khách sáo. Cứ như là tạt nước bùn vào kẻ say để làm hắn tỉnh. Rốt ráo, cũng chẳng cần phải đóng kịch nữa.
Kệ rằng:
Trăm nghe không bằng một mắt thấy,
Nhưng sau khi thấy thầy, một liếc mắt không bằng một trăm nghe.
Mũi của ổng cao quá
Nhưng rốt lại ổng bị mù.

29. KHÔNG PHẢI GIÓ, KHÔNG PHẢI PHƯỚNG

Hai vị tăng đang tranh luận về một lá phướng. Một vị nói: "Lá phướng đang động." Vị kia cải: "Gió đang động."
Lục-tổ [Đại Giám Huệ Năng: Daikan E 'no (J); Daijian Huineng (C), 638-713 - LND] tình cờ đi qua. Ngài bảo họ: "Chẳng phải gió, chẳng phải phướng; tâm đang động."
Lời bàn của Vô-Môn: Lục-tổ bảo: "Gió chẳng động, phướng chẳng động. Tâm đang động." Ngài ngụ ý gì vậy? Nếu ngươi hiểu tường tận thì ngươi sẽ thấy rằng hai vị tăng nọ đang mua sắt mà được vàng. Lục-tổ không cam thấy hai cái đầu đần nên mới xen vào.
Kệ rằng:
Gió, phướng, tâm động,
Đều hiểu như nhau
Khi mở miệng nói
Thì sai cả.

30. TÂM NÀY LÀ PHẬT

Daibai [Đại Mai Pháp Thường: Daibai Hojo (J); Tamai Damei Fachang (hay) Ta-mei Fachang (C), 752-839 - LND] hỏi Baso [Mã tổ Đạo nhất: Baso Doitsu (J); Mazu Daoyi (C), 709-788 - LND]: "Phật là gì?"
Baso bảo: "Tâm này là Phật."
Lời bàn của Vô-Môn: Nếu ai hiểu được khái quát như thế thì hắn đang mặc y của Phật, đang ăn thực phẩm của Phật, đang nói lời của Phật, đang hành xử như Phật, hắn là Phật.
Tuy vậy, câu chuyên vui này đã làm cho không ít thiền sinh mắc bệnh hình thức. Nếu ai hiểu được rốt ráo, thì sau khi nói đến chữ "Phật", hắn sẽ súc miệng luôn ba ngày liền, và hắn sẽ bịt tai mà chạy xa khi nghe "Tâm này là Phật."
Kệ rằng:
Dưới bầu trời xanh, trong nắng sáng,
Không việc gì phải tìm quanh.
Mà hỏi Phật là gì
Cứ như là dấu đồ ăn cắp trong túi mà xưng mình vô tội.

31. JOSHU ĐIỀU TRA

Một vị tăng đang vân du hỏi một bà lão về con đường đến núi Taizan (Đài Sơn - LND), một tự viện nổi tiếng là ai đến cầu nguyện đều được ban cho sự khôn ngoan. Cụ bà nói: "Cứ đi thẳng phía trước." Khi vị tăng đi được vài bước, bà tự bảo: "Y chỉ là một kẻ đi chùa xoàng thôi."
Có người kể lại chuyện này cho Joshu [Triệu Châu Tùng Thẩm: Joshu Jushin (J) Zhaozhou Zongshen (C), 778-897 - LND] nghe, Ngài bảo: "Hãy đợi cho đến khi ta đi điều tra." Hôm sau ngài đến và hỏi cùng câu hỏi, và bà lão cũng đáp cùng câu trả lời.
Joshu nhận xét: "Ta đã điều tra xong bà lão đó."
Lời bàn của Vô-Môn: Bà lão rành về chiến lược, nhưng không rõ làm sao mà gián điệp lại lẻn vào trại của bà được. Lão sư Joshu chơi trò tình báo để lật ngược thế cờ, nhưng lão sư không phải là một ông tướng tài. Cả hai đều có khuyết điểm. Chư tăng, bây giờ ta muốn hỏi các ngươi: Đâu là trọng điểm trong việc điều tra của Joshu về bà lão?
Kệ rằng:
Khi câu hỏi là bâng quơ
Thì câu trả lời cũng bâng quơ.
Khi câu hỏi là cát trộn trong bát cơm
Thì câu trả lời là một cái que xốc trong bãi bùn.

32. MỘT TRIẾT NHÂN HỎI ĐỨC PHẬT

Một triết nhân hỏi Đức Phật: "Vô thuyết, và cũng chẳng vô thuyết, Ngài có thể nói đến chân lý được chăng?"
Đức Phật vẫn giữ yên lặng.
Triết nhân cúi chào cảm tạ Đức Phật, nói: "Với lòng đại từ bi của Ngài, con đã xóa được mê lầm và bước vào chánh đạo."
Sau khi vị triết nhân đi khỏi, Ananda hỏi Đức Phật rằng ông ấy đã đạt được gì.
Đức Phật trả lời: "Một con ngựa giỏi, phi nước đại ngay khi nhác thấy bóng roi."
Lời bàn của Vô-Môn: Ananda là đại đệ tử của Đức Phật. Dù thế, nhận định của ngài cũng chẳng khá hơn kẻ ngoại cuộc. Này chư tăng, ta muốn hỏi các ngươi: Có gì khác lắm chăng giữa môn đồ và kẻ ngoại cuộc?
Kệ rằng:
Để giẫm trên cạnh sắc của lưỡi gươm,
Để chạy rong trên mặt băng trơn,
Chẳng cần phải theo vết chân ai.
Cứ thong dong bước ra khỏi bờ vực.

33. TÂM NÀY CHẲNG PHẢI PHẬT

Một vị tăng hỏi Baso [Mã tổ Đạo nhất: Baso Doitsu (J); Mazu Daoyi (C), 709-788 - LND]: "Phật là gì?"
Baso bảo: "Tâm này chẳng phải Phật."
Lời bàn của Vô-Môn: Kẻ nào hiễu được, là đã ngộ Thiền.
Kệ rằng:
Nếu ngươi gặp một kiếm sư giữa đường, nên biếu ông ta cây gươm của ngươi,
Nếu gặp một thi sĩ, hãy tặng ông ta bài thơ của ngươi.
Khi ngươi gặp kẻ khác, chỉ nói một phần những gì mình muốn nói.
Chớ nên bao giờ cho hết mọi thứ một lần

34. HỌC CHẲNG PHẢI LÀ ĐẠO

Nansen [Nam Tuyền Phổ Nguyện: Nansen Fugan (J) Nanquan Puyuan (C), 738-835 - LND] bảo: "Tâm chẳng phải Phật. Học chẳng phải Đạo."
Lời bàn của Vô-Môn: Nansen già rồi nên không biết ngượng. Lão sư thật thối mồm và vạch áo cho người xem lưng. Tuy vậy, chẳng có nhiều người cảm kích được mối từ tâm của ngài.
Kệ rằng:
Khi trời quang đãng, vầng dương ló dạng,
Khi đất khô cằn, mưa sẽ rơi.
Ngài nói toạc ra với cả tấm lòng,
Nhưng với lợn và cá thì nào có ích gì.

35. HAI LINH HỒN

"Seijo (Thanh - LND), cô gái Tàu," Goso [Ngũ tổ Pháp Diễn: Goso Hōen (J); Wuzu Fayan (C), 1024-1104 - LND] nhận xét, "có hai linh hồn, một luôn bệnh hoạn ở nhà và phần kia thì ngao du phố sá, một người đàn bà có chồng và hai con. Phần nào là linh hồn thật?"
Lời bàn của Vô-Môn: Khi người nào hiễu điều này thì hắn sẽ biết rằng người ta có thể lột xác được, cứ như là dừng chân nơi quán trọ. Nhưng nếu hắn không hiễu thì khi lâm chung, tứ đại phân lìa, chẳng khác gì con cua đang bị luộc, quơ quào với lắm chân tay. Trong tình huống đó, hắn có thể bảo rằng: "Vô-môn đã chẳng chỉ cho ta đi hướng nào!" nhưng than ôi đã muộn.
Kệ rằng:
Mặt trăng trên tầng mây vẫn là một,
Núi và sông bên dưới lại hoàn toàn khác.
Mỗi thứ đều hạnh phúc trong hòa hợp và muôn vẻ.
Cái này là một, đây là hai.

36. GẶP MỘT THIỀN SƯ TRÊN ĐƯỜNG

Goso [Ngũ tổ Pháp Diễn: Goso H?en (J); Wuzu Fayan (C), 1024-1104 - LND] bảo: "Khi ngươi gặp một Thiền sư trên đường, ngươi không thể nói chuyện với ngài, ngươi không thể đối diện trong lặng thinh. Vậy ngươi phải làm gì nào?"
Lời bàn của Vô-Môn: Trong trường hợp ấy, nếu ngươi có thể trả lời ngài một cách tường tận thì sự giác ngộ của ngươi đẹp tuyệt. Nhưng nếu không thể được, thì ngươi nên nhìn bâng quơ làm như không thấy gì cả.
Kệ rằng:
Gặp một thiền sư trên đường,
Không thể nói không thể im.
Thì nện cho ngài một đấm
Và ngươi sẽ được gọi là ngộ thiền.

37. MỘT CON TRÂU RA KHỎI CHUỒNG

Goso [Ngũ tổ Pháp Diễn: Goso Hōen (J); Wuzu Fayan (C), 1024-1104 - LND] bảo: "Khi một con trâu ra khỏi chuồng đến bên bờ vực. Cặp sừng, đầu và móng chân đều qua khỏi, nhưng tại sao cái đuôi lại mắc kẹt?"
Lời bàn của Vô-Môn: Nếu ai mở một mắt thấy được điểm này và nói một lời thiền, thì hắn sẽ được thưởng ngay, và không những thế, hắn còn cứu vớt cả chúng sinh bên dưới. Nhưng nếu hắn không nói được một lời chân thiền, hắn nên quay lại với cái đuôi.
Kệ rằng:
Nếu con trâu chạy, nó sẽ rơi vào hố;
Nếu nó quay trở lại, nó sẽ bị làm thịt.
Cái đuôi nhỏ bé đó
Là một điều thật lạ.

38. CÂY TÙNG GIỮA SÂN

Một vị tăng hỏi Joshu [Triệu Châu Tùng Thẩm: Joshu Jushin (J) Zhaozhou Zongshen (C), 778-897 - LND] tại sao Bồ Đề Đạt Ma lại đến Trung quốc.
Joshu bảo: "Một cây tùng giữa sân."
Lời bàn của Vô-Môn: Nếu ai thấy được câu trả lời sáng tỏ của Joshu, thì không có Phật Thích Ca Mâu Ni trước hắn và chẳng có Phật tương lai sau hắn nữa.
Kệ rằng:
Lời nói chẳng thể diễn tả được mọi điều
Tâm pháp chẳng thể truyền bằng lời.
Nếu ai say mê chữ nghĩa thì sẽ bị lạc lối,
Nếu cố giải thích bằng lời, thì hắn không thể giác ngộ được trong đời này.

39. LẠC LỐI CỦA UMMON

Một thiền sinh nói với Ummon [Vân Môn Văn Yển: Ummon Bun'en (J), Yúnmén Wényăn (C), 864-949 - LND]: "Hào quang của Đức Phật chiếu sáng toàn thể vũ trụ."
Trước khi y chưa dứt câu thì Ummon hỏi: "Ngươi đang ngâm thơ của kẻ khác phải không?" [của Trương Chuyết tú tài: Chõetsu Yusai (J); Zhangzhuo Xiucai (C) - LND]
"Vâng," thiền sinh trả lời.
"Người trật đường rồi," Ummon bảo.
Về sau có vị thiền sư khác tên là Shishin hỏi môn sinh của mình: "Ở điểm nào thì thiền sinh kia trật lối?"
Lời bàn của Vô-Môn: Nếu kẻ nào nhận ra được diệu xão của Ummon, hắn sẽ biết được ở điểm nào thì thiền sinh kia trật lối, và hắn sẽ là một bậc thầy của người và thần. Nếu không, hắn cũng chẳng nhận ra được chính hắn.
Kệ rằng:
Khi con cá thấy lưỡi câu.
Nếu nó tham thì sẽ mắc câu.
Khi nó mở miệng
Thì đời đã tàn.

40. NGHIÊNG BÌNH NƯỚC

Hyakujo [Bách Trượng Hòai Hãi: Hyakụo Ekai (J); Baizhang Huaihai (C), 720-814] muốn cho một môn sinh ra lập một tự viện mới (ở núi Đại Qui - LND). Ngài phán với cả đám rằng nếu kẻ nào trả lời thông suốt được một câu hỏi thì sẽ được giao trọng trách. Đặt một bình nước trên mặt đất, ngài hỏi: "Ai có thể nói nó là cái gì mà không được gọi tên của nó?"
Vị tăng trưởng (chức thủ tòa - LND) nói: "Không ai có thể gọi nó là chiếc guốc."
Isan [Qui Sơn Linh Hựu: Isan Reiyu (J), Guishan Linyou (C), 771-853 - LND], vị tăng lo việc bếp núc (chức điển tòa - LND), dùng chân làm ngã chiếc bình rồi bỏ đi.
Hyakujo cả cười bảo: "Tăng trưởng thua rồi." Và Isan trở nên thiền sư của tự viện mới.
Lời bàn của Vô-Môn: Isan bạo gan thật, nhưng ngài không thoát khỏi trò đùa của Hyakujo. Rốt lại, ngài bỏ một việc nhẹ mà nhận một việc nặng. Tại sao, ngươi không thấy ư, ngài bỏ chiếc nón êm ái để tra chân vào vào cùm sắt.
Kệ rằng:
Từ bỏ nồi niêu xoong chảo,
Hạ được kẻ lắm mồm,
Tuy thầy của ngài dựng chướng ngại thử thách
Chân ngài sẽ đạp ngã mọi thứ, kể cả Phật.

41. BỒ-ĐỀ ĐẠT-MA AN TÂM

Bồ-Đề Đạt-Ma ngồi diện bích. Kẻ kế vị ngài trong tương lai [Huệ Khả: Taiso Ekai (J); Dazu Huike (C), 487-593 - LND] đứng trong tuyết giá và dâng một cánh tay bị chặt lìa. Y khóc: "Tâm của con không an. Đại sư, xin ngài an tâm cho con."
Bồ-Đề Đạt-Ma nói: "Nếu ngươi đem cái tâm đó ra đây ta sẽ an cho."
Người kế vị bảo: "Khi tìm tâm, con chẳng nắm bắt được."
Bồ-Đề Đạt-Ma nói: "Vậy thì tâm ngươi đã an rồi."
Lời bàn của Vô-Môn: Cái lão sư chà và sún răng, Bồ-Đề Đạt-Ma, mất công vượt biển cả hàng ngàn dặm từ Ấn Độ đến Trung Hoa tưởng có gì kỳ diệu. Lão sư cứ như là sóng nổi chẳng cần gió. Sau bao năm lưu lại Trung Hoa, lão sư chỉ có mỗi một môn đồ, mà lại là kẻ cụt tay dị dạng. Than ôi, từ đấy lão sư có toàn đệ tử vô trí.
Kệ rằng:
Tại sao Bồ-Đề Đạt-Ma đến Trung Hoa?
Đã bao năm tăng chúng cứ bàn chuyện này mãi.
Mọi điều lôi thôi đeo đuổi từ bấy giờ
Do ông thầy và môn đồ đó.

42. CÔ GÁI XUẤT KHỎI THIỀN ĐỊNH

Vào thời của Đức Phật Thích Ca, Manjusri (Văn Thù Sư Lợi - LND) đi đến chỗ phó hội của chư Phật. Khi vừa đến nơi thì cuộc hội đã tan, và mỗi vị Phật đều đã trở về nước Phật của mình. Chỉ còn lại một cô gái an nhiên trong thiền định sâu xa.
Manjusri hỏi Đức Phật Thích Ca làm sao mà một cô gái có thể đạt đến bậc này, mà ngay cả ngài còn chưa thể đạt tới. "Hãy đưa nàng ra khỏi tam-bồ-đề mà hỏi cho rõ," Đức Phật trả lời.
Manjusri bước vòng quanh cô gái ba lần và búng tay. Nàng vẫn còn đắm trong thiền định. Ngài bèn vận dụng thần lực đưa nàng lên tầng trời cao hơn và cố hết sức gọi nàng, nhưng vô ích.
Đức Phật Thích Ca bảo: "Ngay cả trăm ngàn Manjusri cũng không thể quấy động nàng, nhưng ở dưới nơi này, cách đây mười hai trăm triệu thế giới, có vị Bồ tát tên là Mo-myo (Võng Minh Bồ Tát - LND), mầm ảo tưởng. Nếu ông ấy đến đây, nàng sẽ thức dậy."
Đức Phật nói chưa dứt câu thì vị Bồ tát đã nhảy vọt lên từ mặt đất, cúi đấu đảnh lễ Phật. Đức Phật dẫn ngài đến để đánh thức cô gái. Vị Bồ tát đến trước cô gái và búng tay, tức thì nàng xuất ra khỏi thiền định.
Lời bàn của Vô-Môn: Lão Bụt dàn cảnh kém quá. Này chư tăng, ta muốn hỏi các ngươi: Nếu Manjusri, vị được coi là bậc thầy của bảy vị Phật (có nơi viết ' bảy vị bồ tát ' - LND) đã không thể đem cô gái này ra khỏi thiền định, thì cớ sao chỉ một Bồ tát, là kẻ mới bắt đầu, (Bồ tát sơ địa - LND) lại có thể làm được?
Nếu ngươi hiểu được chỗ này tường tận, ngươi có thể đi vào đại định trong khi đang sống ở thế giới ảo tưởng.
Kệ rằng:
Một người không thể đánh thức nàng, kẻ khác lại có thể.
Cả hai đều là diễn viên kém.
Một kẻ mang mặt nạ của thần, kẻ kia quỷ sứ.
Giá mà cả hai đều thất bại, thì vở kịch trở nên khôi hài.

43. CÂY GẬY NGẮN CỦA SHUZAN

Shuzan [Thủ Sơn TỈnh Niệm: Shuzan Shonen (J); Shoushan Xingnian (C), 925-993 - LND] đưa cây gậy ngắn ra và bảo: "Nếu ngươi gọi nó là đoản trượng, ngươi phản thực tại. Nếu ngươi không gọi nó là đoản trượng, ngươi coi thường thực tế. Bây giờ ngươi muốn gọi nó là cái gì nào?"
Lời bàn của Vô-Môn: Nếu ngươi gọi nó là đoản trượng, ngươi phản thực tại. Nếu ngươi không gọi nó là đoản trượng, ngươi coi thường thực tế. Không thể diễn đạt bằng lời, và cũng không thể diễn đạt mà không dùng lời. Bây giờ, hãy nói ngay cái gì vậy.
Kệ rằng:
Đưa cây gậy ngắn ra,
Ngài phán sự sống và chết.
Dương và Âm xoắn chặt,
Ngay cả Chư Phật và Chư Tổ cũng chẳng thoát được.

44. CÂY TRƯỢNG CỦA BASHO

Basho [[Ba Tiêu Huệ Thanh: Bash? Esho? (j); Ba?jia?o Hu?ching (C), Thế kỷ 10 - LND] bảo với một đệ tử: "Khi ngươi có một cây trượng, ta sẽ tặng nó cho ngươi. Khi ngươi không có cây trượng, ta sẽ lấy nó lại."
Lời bàn của Vô-Môn: Khi không có chiếc cầu bắt qua con lạch thì cây trượng sẽ giúp ta. Khi ta trở về nhà trong một đêm tối không trăng, cây trượng theo ta. Nhưng nếu ngươi gọi cái này là cây trượng, ngươi sa xuống địa ngục như mũi tên.
Kệ rằng:
Với cây trượng này trong tay ta
Ta có thể dò được thế giới sâu hay cạn.
Cây trượng chống được trời và trụ được đất.
Chánh pháp thì sẽ lan truyền dù bất cứ ở đâu.

45. NGÀI LÀ AI?

Hoen [Ngũ tổ Pháp Diễn: Goso H?en (J); Wuzu Fayan (C), 1024-1104 - LND] nói: "Chư Phật trong quá khứ và tương lai đều là kẻ phục dịch cho Ngài. Thế thì Ngài là ai vậy?"
Lời bàn của Vô-Môn: Nếu ngươi thấy rõ được ngài là ai thì chẳng khác gì ngươi tình cờ gặp cha của ngươi trong dường phố đông đúc. Chẳng cần phải hỏi ai về việc nhận diện của ngươi có đúng hay không.
Kệ rằng:
Chớ nên chiến đấu với cung tên của kẻ khác.
Chớ nên cuỡi ngựa của kẻ khác.
Chớ nên bàn cãi đến lỗi lầm của kẻ khác.
Chớ nên xía vào chuyện của kẻ khác.

46. TIẾN LÊN THÊM NỮA TỪ NGỌN CỦA CÂY SÀO

Sekiso [Thạch Sương Khánh Chư: Sekis?-Keisho? (J); Shishuang Quingzhu (C), 807-889 - LND] hỏi: "Làm sao ngươi tiến thêm nữa từ ngọn của cây sào trăm đốt?" Có vị thiền sư khác lại nói: "Kẻ ngồi trên ngọn của cây sào trăm đốt thì đã đạt được một độ cao nào đó nhưng vẫn chưa hành Thiền được một cách thong dong. Hắn nên tiến lên thêm nữa và hiện nguyên hình trong mười phương thế giới."
Lời bàn của Vô-Môn: Người ta có thể bước thêm hoặc xoay mình tự do trên ngọn cây sào. Trong trường hợp nào hắn cũng được tôn kính. Này chư tăng, ta muốn hỏi các nguơi: Làm sao ngươi tiến thêm nữa từ ngọn của cây sào ấy? Coi chừng đấy!
Kệ rằng:
Có người thiếu mất con mắt thứ ba nội tại
Sẽ dính mắc vào chỗ phải đo đúng trăm đốt.
Kẻ như vậy sẽ nhảy xuống từ đó và tan xác,
Như một người mù dẫn những kẻ mù khác.

47. BA CỬA CỦA TOSOTSU

Tosotsu [Đâu Suất Tùng Duyệt: Tosotsu J?etsu (J); Doushuai Conyue (C) - 1044-1091 - LND] xây ba chướng ngại vật và bắt chư tăng phải vượt qua. Cản thứ nhất là tu học Thiền. Trong việc tu học Thiền là cốt để nhận ra bản lai diện mục của mình. Bây giờ thì bản lai diện mục của ngươi ở chỗ nào?
Cản thứ hai là khi nhận ra được bản lai diện mục của mình thì sẽ thoát được khỏi vòng sanh tử. Vậy khi ngươi nhắm mắt lại và trở thành thây ma thì làm sao ngươi giải thoát được?
Cản thứ ba, nếu ngươi giải thoát được khỏi vòng sanh tử, thì ngươi phải biết ngươi đang ở đâu. Vậy nếu thân xác ngươi bị tan rã ra thành tứ đại, thì ngươi ở đâu?
Lời bàn của Vô-Môn: Nếu ai có thể vượt qua được ba rào cản này thì sẽ trở thành bậc thầy dù là đứng ở đâu. Bất cứ việc gì xảy ra thì hắn sẽ biến thành Thiền.
Còn không thì hắn sẽ sống lây lất đói kém, thèm thuồng.
Kệ rằng:
Một sự chợt ngộ thấy suốt thời gian vô tận.
Thời gian vô tận là một chốc lát.
Khi có người thấu được chốc lát vô tận
Y nhận ra con người đang trông thấy đó.

48. MỘT ĐƯỜNG CỦA KEMBO

Một thiền sinh hỏi Kembo [Càn Phong: Kembo (J); Jianfeng (C), thế kỷ 9/10 - LND]: "Tất cả chư Phật trong mười phuơng vũ trụ đều đi theo một đường duy nhất vào Niết bàn. Con đường đó bắt đầu từ đâu?"
Kembo, vung gậy lên không vẽ một hình, nói: "Này, nó đấy."
Thiền sinh này tìm đến Ummon [Vân Môn Văn Yển: Ummon Bun'en (J), Yúnmén Wényăn (C), 864-949 - LND] và hỏi cùng một câu. Ummon đang sẳn cầm cái quạt trong tay, bảo: "Cái quạt này sẽ bay lên đến ba mươi ba tầng trời và đập vào mũi của vị thiên vương đang cai quản ở đấy. Nó giống như Long Vương ở Biển Đông trút mây mưa bằng một cái vẫy đuôi."
Lời bàn của Vô-Môn: Một thiền sư đi vào biển sâu, cào mặt đất để dấy một ít bụi. Vị khác thì leo lên đỉnh núi cao, khơi sóng gần chạm đến trời. Một người thì nắm giữ, người kia thì cho ra hết. Mỗi vị đều hộ trì giáo pháp thâm diệu với một tay mình. Kembo và Ummon đều giống như hai kỵ mã, chẳng ai hơn ai. Thật là khó mà bảo ai là kẻ toàn bích. Nhưng sòng phẳng mà nói thì cả hai đều chẳng biết con đường bắt đầu từ đâu.
Kệ rằng:
Trước khi cất bước đầu tiên thì mục đích đã đạt.
Truớc khi lưỡi uốn thì lời nói đã dứt.
Cần rất nhiều trực quan sáng suốt
Để tìm ra nguồn gốc của chánh đạo.

49. LỜI THÊM CỦA AMBAN

Amban, một thiền sinh tầm thường, nói: "Mu-mon (Vô-Môn) vừa cho ấn hành bốn mươi tám công-án và gọi tập sách là Vô Môn Quan. Ngài chỉ trích giáo thư và hành động của chư Tổ. Ta nghĩ ông ấy bậy quá. Ngài giống như một ông già bán bánh cố túm lấy khách để nhét bánh vào mồm ngươi ta. Khách chỉ còn cách hoặc là nuốt vào hoặc nhổ ra, và như thế chỉ gây đau khổ. Mu-mon đã làm phiền nhiều người quá rồi, vì thế ta muốn thêm vào một công án xem như là một sự điều đình. Ta không biết ngài có chịu nuốt sự mặc cả này không. Nếu ngài chịu, và tiêu hóa nó thì tốt, nếu không thì ta đành phải bỏ nó vào chảo mà chiên xào nó lại cùng với bốn mươi tám công-án của ngài. Mu-mon, ngài dùng trước, rồi mới đến mọi người khác:
"Theo một bộ kinh thì Đức Phật có nói: Hãy ngưng, hãy ngưng. Đừng nói. Chân lý tối thượng lắm khi còn không thể nghĩ đến."
Lời bàn của Amban: Giáo pháp đó từ đâu mà ra vậy cà? Cớ sao ngưới ta lại không thể nghĩ đến chân lý tối thượng? Giả sử có người nói đến nó thì chuyện gì sẽ xảy ra với nó? Đức Phật là vị đại thuyết minh mà cứ theo bộ kinh này thì ngài lại nói ngược ư. Vì lẽ này, những người như Mu-mon xuất hiện về sau ở Trung Hoa, và làm những món bánh vô bổ, khiến mọi người bực mình. Vậy thì chúng ta phải làm gì nào? Ta sẽ chỉ cho các ngươi.
Rồi Amban chấp tay lại và nói: "Hãy ngưng, hãy ngưng, Đừng nói. Chân lý tối thượng lắm khi còn không thể nghĩ đến. Bây giờ ta sẽ vẽ một vòng bằng ngón tay của ta lên trên bộ kinh, và thêm vào năm ngàn bộ kinh khác và Cửa Không của Vimalakirti (Duy Ma Cật) ở ngay đây!"
Kệ rằng:
Nếu ai bảo các ngươi rằng lửa là ánh sáng,
Chẳng để ý đến làm gì.
Khi hai tên đạo chích gặp nhau, chúng chẳng cần giới thiệu:
Chúng nhận ra nhau ngay, không cần hỏi.