Nguyễn Văn Vĩnh

dịch thơ của Jean de la Fontaine



Thần chết và lão tiều phu

Lão tiều vác củi cành một bó .
Tuổi đã nhiều niên số lại cao,
Lặc-lè chân đá chân xiêu .
Lom-khom về chốn thảo mao khói mù .
Tủi thân-phận kỳ khu khó nhọc,
Đặt bó sài ở dọc lối đi .
Than rằng sung sướng nỗi gì,
Khắp trong thế giới ai thì khổ hơn?
Bữa no đói luôn cơn buồn-bã,
Vợ nào con vất-vả trăm chiều .
Hết thuế lính lại thuế sưu,
Quanh năm khách nợ còn điều gì vinh?
Hỡi thần Chết thương tình chăng tá,
Đến tôi đi cho đã một đời .
Chết đâu dẫn lại tức thời,
Hỏi: - Già khi nãy kêu vời lão chi?
Lão tiền thấy cơ nguy cuống sợ
- Nhờ tay ngài nhắc đỡ lên vai .
Thơ rằng:
“Đành chết là hết nợ
Sao mà ai cũng sợ ?
Mới hay bụng thế gian,
Khổ mà sống còn hơn.”


La Mort et le Bûcheron

Un pauvre Bûcheron tout couvert de ramée,
Sous le faix du fagot aussi bien que des ans
Gémissant et courbé marchait à pas pesants,
Et tâchait de gagner sa chaumine enfumée .
Enfin, n'en pouvant plus d'effort et de douleur,
Il met bas son fagot, il songe à son malheur.
Quel plaisir a-t-il eu depuis qu'il est au monde ?
En est-il un plus pauvre en la machine ronde ?
Point de pain quelquefois, et jamais de repos.
Sa femme, ses enfants, les soldats, les impôts,
Le créancier, et la corvée
Lui font d'un malheureux la peinture achevée .
Il appelle la mort, elle vient sans tarder,
Lui demande ce qu'il faut faire
C'est, dit-il, afin de m'aider
A recharger ce bois ; tu ne tarderas guère .
Le trépas vient tout guérir ;
Mais ne bougeons d'où nous sommes.
Plutôt souffrir que mourir,
C'est la devise des hommes.


* Nguyễn Văn Vĩnh ( các bút hiệu Quan Thành, Tân Nam Tử, Tông Gia, Lang Gia, Mũi Tẹt Tử, Đào Thị Loan) sinh năm 1882 ( Nhâm Ngọ) , người làng Phượng Vũ, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông . Năm 1896, ông tốt nghiệp (đỗ đầu) trường Thông ngôn ( Collège des interprètes) hồi chưa đến 18 tuổi , được bổ làm thư ký toà sứ . Ông thông tiếng Anh. tiếng Trung Hoa. Năm 1906 ông dự cuộc đấu xảo ở Marseille bên Pháp, khi về nước, ông từ bỏ cuộc đời công chức, ra kinh doanh, mở nhà in, làm báo, dịch sách : Chủ bút tờ Đồng văn nhật báo (sau đổi là Đăng cổ tùng báo) (1907), Notre Journal (1908), Notre Revue Journal (1908), Đông Dương tạp chí (1913), Trung Bắc Tân văn (1915), Nam học niên khóa (sau đổi là Học báo) (1919), An Nam Nouveau (1931). Ông là một trong những người tham gia sáng lập và giảng dạy ở Trường Đông Kinh nghĩa thục. Năm 1936 ,ông đi Lào với ý định tìm vàng, rồi bị bệnh kiết, mất vào ngày 1-5-1936 tại Tchépone (Lào), hưởng dương 54 tuổi. Ông đã thật sự tích cực đóng góp cho văn hóa Việt Nam, lại khởi xướng vấn đề cải cách chữ Quốc ngữ. Tác phẩm của Ông rất đồ sộ gồm 2 phần : phần trứ tác như : Xét tật mình ( Ðông Dương tạp chí) ... và phần dịch thuật như : Thơ ngụ ngôn của La Fontaine (dịch, nhà xuất bản Trung Bắc tân văn, 1928) , Truyện trẻ con của Perrault ( nhà xuất bản Trung Bắc tân văn, 1928) ...

* Jean de La Fontaine (1621-1695), nhà thơ ngụ ngôn của Pháp , sinh năm 1621 ở Château-Thierry, Champagne, miền trung nước Pháp . Ông chết ngày 13 tháng 4 năm 1695 ở Paris . Năm 1683 , Ông được bầu vào Hàn Lâm Viện Pháp . Các bài thơ ngụ ngôn của La Fontaine phần lớn phỏng thơ ngụ ngôn của Aesop gồm có 230 bài được truyền bá sâu rộng ở Âu Châu trong suốt 2 thế kỷ 17 và 18 .