Tây Phương và Đạo Đức Kinh


“Đạo Đức Kinh” là một trong những cuốn sách nổi tiếng nhất lịch sử nhân loại, tương truyền được Lão Tử viết ra vào khoảng năm 600 TCN. Theo những ghi chép cổ, Lão Tử vì chán ngán cõi đời đen bạc, bèn đi về phía Tây ở ẩn. Khi qua cửa Hàm Cốc, ông gặp Doãn Hỷ làm quan giữ ải. Cảm mến lòng mộ đạo của Doãn Hỷ, Lão Tử bèn để lại 5 nghìn chữ, chính là bộ “Đạo Đức Kinh”, dặn Doãn Hỷ cứ theo đó mà tu hành thì sẽ đắc đạo. Thật vậy, chỉ với 81 đoạn thơ, Đạo Đức Kinh đã nêu lên toàn bộ các quy luật vận hành của vũ trụ, của xã hội và của đời sống con người. Những trực giác bén nhạy chứa trong những câu thơ súc tích của cuốn kinh huyền hoặc này tạo thành một nguồn minh triết sống động, mang lại niềm an ủi, sự khuyên giải và giác ngộ cho hàng triệu người trên khắp thế giới. Không có cuốn sách nào trên hành tinh này được dịch rộng rãi và liên tục như Đạo Đức Kinh của Lão Tử; cũng không cuốn sách nào ngoại trừ Kinh Thánh, được dịch sang tiếng Anh một cách thường xuyên như nó. Năm 1955, có 126 bản dịch khác nhau được in trên khắp thế giới: 90 bản thuộc các thứ tiếng Tây phương, còn lại là tiếng Anh. Suốt hàng nghìn năm qua, đã có vô số nhà nghiên cứu giải nghĩa, tìm hiểu “Đạo Đức Kinh” nhưng tất cả đều thừa nhận rằng mình chưa từng hiểu thấu được hàm nghĩa bên trong của bộ sách này. Các đạo sĩ nhìn thấy toàn thể vũ trụ ngập tràn trong “Đạo Đức Kinh”, còn những nhà chính trị gia, khoa học gia đã thấy được những gì mà khiến cả Tây phương chấn động?

Joseph de Premare (1666—1736) là một mục sư tin lành người Pháp từng đến Trung Quốc vào năm 1698. Ông từng dùng tiếng Latinh để bình luận về “Đạo Đức Kinh” của Lão Tử. Thông qua “Đạo Đức Kinh” ông đã phát hiện ra tên của Thượng Đế. Lão Tử viết: “Thị chi bất kiến danh viết di (Yi), thính chi bất văn danh viết hi (Hsi), bác chi bất đắc danh viết vi (Wei), Thử tam giả bất khả trí cật, cố hỗn nhi vi nhất“. Tạm dịch: “Nhìn không thấy, gọi là Di. Nghe không thấy, gọi là Hi. Nắm không được, gọi là Vi. Ba điều ấy không thể suy cứu đến cùng. Cho nên hợp lại làm một." Ông cho rằng Yi Hsi Wei (雅赫维) cũng giống như Dimensional (夷希微) cũng chính là tên của đấng toàn năng Thần Giê-hô-va.
Reagan, vị Tổng thống thứ 40 của nước Mỹ, tại vị trong hai nhiệm kỳ liên tiếp, thấy được nguyên tắc hành pháp trong Đạo Đức Kinh Vào thời gian Tổng thống Reagan tới thăm Trung Quốc năm 1984, ông có tìm hiểu một chút về học thuyết Đạo gia của Trung Quốc. Trong bản báo cáo gửi Quốc hội về tình hình trong nước vào năm 1987, ông có trích dẫn một câu trong “Đạo Đức Kinh” của Lão Tử: “Trì đại quốc nhược phanh tiểu tiên”, tạm dịch: “Cai trị một nước lớn giống như nấu con cá nhỏ”, câu trích dẫn này đã tỏ rõ nguyên tắc chỉ đạo chính trị của Reagan thời đó. Cai trị một nước mà chỉ có một mình, dẫu sáng suốt quyết đoán cũng chẳng thể kiêm toàn, kết cục rồi phải thất bại. Reagan còn nói rõ trong báo cáo gửi Quốc hội: “Trong hiến pháp của các nước khác, chính phủ nói với người dân phải làm như thế nào. Còn hiến pháp của nước chúng ta, là người dân nói cho chính phủ phải làm gì, hơn nữa chỉ có thể căn cứ theo quy định trong hiến pháp mà làm. Ở các cuộc cách mạng khác là dùng chế độ thống trị mới để thay thế cho chế độ thống trị cũ, còn cuộc cách mạng của chúng ta là do người dân làm chủ, chính phủ là người làm thuê, là người hầu của dân. Là do người dân quyết định”.
Niels Henrik David Bohr (1885 – 1962) là nhà vật lý học người Đan Mạch với những đóng góp nền tảng về lý thuyết cấu trúc nguyên tử và cơ học lượng tử sơ khai, nhờ đó mà ông nhận Giải Nobel Vật lý năm 1922. Năm 1937 có cơ hội tới thăm Trung Quốc, ông phát hiện được Thái Cực đồ của Đạo gia chính là cơ sở bổ sung cho nguyên lý trong triết học. Nguyên nhân bởi hệ âm dương trong Thái Cực đồ của Đạo gia là có mối quan hệ thống nhất trong đối lập, trong âm có dương và trong dương có âm. “Đạo khả đạo, phi thường đạo, danh khả danh, phi thường danh”, nghĩa là: “Đạo (mà) có thể gọi được, không phải là Đạo vĩnh hằng. Tên mà có thể gọi được, không (còn) phải là tên vĩnh hằng. Đó chính là khái niệm về lý tương sinh tương khắc. Có thể thấy rõ điều đó qua những câu khác trong “Đạo Đức Kinh” như: “Thiên hạ vạn vật sinh vu hữu, hữu sinh vu vô”, dịch nghĩa: “Vạn vật trong thiên hạ sinh ra từ Có, và Có sinh ra từ Không”.
Joseph Needham (1900-1995) là nhà sinh vật học, khoa học lịch sử hai lần đoạt giải Nobel. Trong quá trình nghiên cứu và xác định vị trí chủ yếu của Đạo gia trong lịch sử khoa học kỹ thuật Trung Hoa, ông phát hiện tầm quan trọng của thế giới trong tư tưởng của Đạo gia. Theo Needham thì Lão giáo “rút về hoang dã, rừng núi để thiền quán về trật tự trời đất và để quan sát vô số dạng xuất hiện của thiên nhiên”. Prigogine (1917-2003) nhà hóa học người Bỉ gốc Nga và có sự nghiệp phát triển tại Mỹ. Ông đoạt giải Nobel Hóa học năm 1977. Ông cho rằng trong tư tưởng “Vô vi nhi vô bất vi” của Đạo gia ở Trung Hoa có tư tưởng về “tự tổ chức” và “vận động tự phát”. Điều này khi kết hợp với truyền thống của Tây phương, có lẽ sẽ hướng tới khuôn mẫu tự nhiên trong tương lai. Ông tâm đắc với câu nói Lão Tử: “Đại đạo phiếm hề, kỳ khả tả hữu. Vạn vật thị chi nhi sinh nhi bất từ, công thành nhi bất hữu, y dưỡng vạn vật nhi bất vi chủ. Thường vô dục, khả danh vu tiểu; vạn vật quy yên nhi bất vi chủ, khả danh vi đại. Dĩ kỳ chung bất vi kỳ đại, cố năng thành kỳ đại“. Tạm dịch: “Đạo lớn lan tràn khắp, có thể qua bên trái, qua bên phải. Vạn vật nhờ nó mà sinh trưởng mà nó không can thiệp vào, công thành rồi mà không nhận là của mình; nó nuôi dưỡng vạn vật mà không làm chủ vạn vật. Nó vĩnh viễn là “không”, vô vi, cho nên có thể bảo nó là ẩn vi, (vô hình); muôn vật quy về nó mà nó không làm chủ, cho nên có thể bảo nó là lớn. Vì cho tới cùng, nó không tự nhận nó là lớn cho nên mới hoàn thành được cái vĩ đại của nó.