THẤU CẢM

Đỗ Hồng Ngọc



Thấu cảm (empathy) không phải là thông cảm. Cũng không phải là đồng cảm. Tiếng Việt ta có nhiều từ “thấu” rất hay như thấu hiểu, thấu đáo, thấu… xương (lạnh thấu xương!)…
Cho nên thấu cảm không dễ chút nào! Thấu cảm đòi hỏi phải có khả năng đặt mình vào vị trí người khác để hiểu rõ nguồn cơn, ngọn ngành. Từ cái hiểu sâu sắc đó mới có cách ứng xử đúng đắn, phù hợp. Đối với người thầy thuốc thì thấu cảm là đặt mình vào vị trí của người bệnh để hiểu được đằng sau nỗi đau kia còn có nỗi khổ nào, đằng sau cái bệnh kia còn có cái hoạn nào. Nhờ vậy màmối tương giao thầy thuốc - bệnh nhân trở nên “đằm thắm” hơn, truyền thông sẽ hiệu quả hơn, có sự hợp tác tốt hơn giữa thầy thuốc và bệnh nhân.
Trong buổi thảo luận “Bàn tròn sinh viên” năm thứ hai nhằm chuẩn bị thái độ và kỹ năng cho các em đi lâm sàng đạt hiệu quả tốt, một sinh viên nói em cầm kim chích thuốc cho bệnh nhân mà run rẩy, chỉ sợ bệnh nhân đau. Vậy là tốt. Biết sợ bệnh nhân đau là tốt. Chỉ lo lâu ngày chày tháng biến thành vô cảm. Người ta vẫn thường trách người thầy thuốc hôm nay, chỉ biết máy móc xét nghiệm mà không thấy có bệnh nhân, chẳng cần hỏi han, chẳng cần “nhìn sờ gõ nghe” gì đến bệnh nhân cả. Một em lớp lớn khuyên do quá đông sinh viên nên phải chia từng nhóm để “thao tác’ trên bệnh nhân rồi chia sẻ thông tin với nhau. Một vị thầy nhắc, đối với người bệnh, không nên dùng từ “thao tác”. Thao tác là dùng cho máy móc kia. Em hãy tưởng tượng mình chính là người bệnh đang có nhiều biến chứng trầm trọng đó được nhiều sinh viên tới ‘thao tác” thì sẽ cảm thấy thế nào? Phải luôn biết ơn người bệnh vì nhờ họ mà em được học hỏi để trở nên người thầy thuốc giỏi. Một vị thầy khác nói thêm: với cái TV cũ, hư hỏng nặng, người thợ có thể khuyên: sửa không được đâu, vô ích thôi, mua cái khác cho rồi! Còn với một bệnh nhân không thể nói vợ ông già quá rồi, chữa không được đâu, vô ích thôi, lấy vợ khác cho rồi được!
Khoa học y học ngày càng tiến bộ, nhiều kỹ thuật mới ra đời, thậm chí có khả năng thay thế bác sĩ, chẩn đoán bệnh tật, cho y lệnh chính xác. Người thầy thuốc được dạy để biết sử dụng các máy móc tân kỳ, thay đổi mẫu mã xoành xoạch đó, dần dần có khuynh hướng chạy theo kỹ thuật, lệ thuộc máy móc và qua đó cũng lạnh lùng, máy móc, “khoa học”, xa cách dần với… con người. Nó làm cho người thầy thuốc trở nên bí hiểm… chẳng khác gì các phù thủy của những bộ lạc ngày xưa! Thế nhưng con người từ xưa đến nay vẫn không thay đổi: cũng những âu lo, phiền muộn, sợ hãi, cũng những ganh tị, ghen ghét, mừng vui, cũng những già nua, tuổi tác, ốm đau, bệnh hoạn…
Mấy năm trước, trường Y khoa đại học California Los Angeles, đã làm một cuộc “thí nghiệm” lý thú nhằm huấn luyện các bác sĩ tương lai để có khả năng “thấu cảm” tốt hơn. Họ chọn một số sinh viên y khoa tình nguyện giả bệnh nhân để nhập viện điều trị. Hoàn toàn bí mật. Chỉ có giám đốc bệnh viện và điều dưỡng trưởng tham gia trong nhóm nghiên cứu mới được biết trước, còn toàn bộ nhân viên đều không được biết.
Một “ca” giả tình huống té thang lầu, có giai đoạn ngất thoáng qua; một ca giả đau bụng, ói mửa, mất nước, kiệt sức (cho uống Ipeca), và ca thứ ba giả bị tai nạn xe máy, đau thắt lưng, một chân bị yếu. Các sinh viên được “tập huấn” kỹ, khai bệnh trơn tru, qua mắt bác sĩ nhận bệnh. Chọn buổi chiều thứ Bảy, cuối tuần, là lúc mọi người dễ lơ đễnh nhất để vào bệnh viện. Các “bệnh nhân” được thử máu, truyền dịch, chụp CT, MRI các thứ…
Sau đây là kết quả: Một sinh viên nói “Lúc đó cảm thấy bất lực, hoàn toàn mất tự chủ. Không kiểm soát được. Chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra. Chẳng ai giải thích phải làm xét nghiệm gì, lúc nào, tại sao… cũng đành“nhắm mắt đưa chân”! Người thứ hai là cô sinh viên y khoa năm thứ ba, Lisa Shapiro, nói cô hoàn toàn kinh ngạc thấy bác sĩ rất kiệm lời, lạnh lùng, luôn có vẻ mệt mỏi, như chỉ làm cho xong bổn phận, còn điều dưỡng thì khá hơn, tử tế hơn một chút. Cô cảm thấy rất hoang mang, sợ hãi, cô đơn cùng cực. Tất cả đều nói bệnh giả mà thành bệnh thiệt! Lisa Shapiro nói thêm “Có cảm giác như mình bị sụp bẫy! Tim đập loạn xạ, huyết áp tăng vọt và có vẻ sốt cao thật sự!”. Người nằm giường kế bên cô là một bà già bệnh nặng, kêu bác sĩ suốt đêm, đèn cứ tắt rồi sáng liên tục làm cô không sao nhắm mắt nổi. Căng thẳng. Bơ phờ. Mệt mỏi!
Được hỏi qua trải nghiệm này, liệu khi ra trường trở thành bác sĩ, cô có quên sạch không? Cô khẳng định không thể nào quên! Cô chỉ nằm viện có 19 giờ đồng hồ mà thấy thời gian dài đăng đẳng. Khi bác sĩ đến thăm bệnh nói cô khá nhiều rồi, cho xuất viện, cô mừng đến phát khóc!

_______________

Chú thich

Thấu cảm: empathy. Tạm dịch: người ta thường nhầm lẫn thấu cảm với thông cảm.
Thấu cảm nghĩa là “khả năng hiểu và chia sẻ cảm nhận của người khác (chẳng hạn như tác giả có khả năng làm cho bạn cảm thấy mình thấu cảm với các nhân vật).
Trong khi thông cảm nghĩa là những cảm nhận xót thương, buồn trước sự bất hạnh của người khác(chẳng hạn ta thấy rất thông cảm với những nạn nhân của bão lụt).
Từ nguyên: empatheia, tiếng Hy Lạp (em- ‘in’ + pathos) có nghĩa là “nhập vào-cái gì gợi ra cảm xúc ở người khác; đầu thế kỷ 20 đi vào tiếng Anh thành “empathy”, tiếng Đức: Einfühlung).
Tuy nhiên, nếu tra cứu ngược cách dịch “Empathy” sang tiếng Việt, thì ta thấy từ lâu rồi, từ này vẫn được dịch là “đồng cảm”, rất rõ ràng, đơn giản, thậm chí còn được phân biệt với “thông cảm”(“sympathy”) một cách không thể lẫn.
Đơn cử:
“Empathy và sympathy là hai từ thường được dùng lẫn lộn trong bối cảnh như: nhà bị trộm, nhà có người ốm, mất việc... để chia sẻ nỗi buồn nào đó với người khác.
Nhưng hai từ này có nghĩa khác nhau, và bạn nên thận trọng khi sử dụng một trong hai từ cho đúng ngữ cảnh của nó. Empathy hiểu nôm na là sự đồng cảm với người khác, đặc biệt khi mình từng trải qua tình cảnh tương tự.
Ví dụ: Having been late to class many times himself, the teacher had empathy on the students who was late. (Trước kia từng lên lớp muộn nhiều lần, thầy giáo rất thông cảm với những bạn đi học muộn).
Empathy có nghĩa là đặt mình vào hoàn cảnh của người khác để hiểu vấn đề của họ (put yourself into someone's shoes).
Trong khi đó, sympathy là việc chia buồn với nỗi đau hoặc mất mát của người khác.
Ví dụ: - I offer my sympathy to the loss of income of the fishermen due to the pollution. (Tôi cảm thôngvới những thiệt hại về thu nhập của ngư dân do ô nhiễm).
Như vậy, bạn có thể thấy sự khác biệt giữa hai từ này: sympathy là sự chia sẻ nỗi đau mà một người dành cho người khác, nhưng empathy tập trung vào việc đặt mình vào hoàn cảnh của người khác để thấu hiểu nỗi đau của họ. Bạn có thể thương cảm những ngư dân, nhưng nếu chưa bao giờ sống bằng nghề chài lưới, bạn sẽ không thể có empathy với họ.
Chỉ có người từng sống chết với biển khơi và các luồng cá mới có thể làm được điều ấy (feel empathy)” ( http://vnexpress.net/tin-tuc/ giao-duc/hoc-tieng-anh/phan- biet-empathy-va-sympathy- 3564180.html ).
Ngoài ra, Từ điển Anh-Trung cũng dịch “Empathy” là “đồng tình”, “đồng cảm”. (同情;同感,共鸣): 同情: đồng tình; 同感: đồng cảm; 共鸣: cộng minh: nghĩa là cùng kêu, cùng hót, cùng gáy, cùng rống... (chữ 鸣 là giản thể của chữ鳴 là tiếng chim (bao gồm cả gia cầm như gà, vịt, ngan, ngỗng...).